Bài 1: Ca Huế
1. Nhạc Lễ
Là nhạc sử dụng trong các nghi lễ đời sống phong kiến ngày trước. Thời Lê sơ, nhạc Cung đình và nhạc Lễ trong dân gian có sự khác biệt: Loại thứ nhất do các bộ đồng văn và Nhã nhạc trình tấu; loại thứ hai do ty Giáo phường quản lý.
Với sự suy tàn của các triều đại về sau, đặc biệt dưới thời Pháp thuộc, nhạc Cung đình đã bị phân hóa mạnh mẽ: bộ phận gần gũi với lễ nghi đời sống nhân dân thì đồng hoá luôn với nhạc lễ dân gian. Cùng với âm nhạc Rõi bóng (tức là Chầu văn ở miền Trung), thành phần âm nhạc này dựa trên cơ sở chính là nhạc đàn: theo truyền thống từ nhạc Cung đình để lại, ở đây có hai hình thức: Đại nhac., gồm chủ yếu bộ gõ và kèn, và Tiểu nhạc, gồm chủ yếu các loại nhạc dây, nhiều nhất là dây gảy Bài bản nhạc Lễ sắp xếp theo những hệ thống chặt chẽ, tuỳ theo mỗi nghi thức lễ lạc, giống những liên khúc, tổ khúc ở nhạc mới, với những tên bài phần lớn chữ Hán Việt như Phẩm Tuyết, Tây Mai, Long Đăng, Long Ngâm (tiểunhạc), Ngũ lôi cổ, Đăng đàn, Mã Vũ (đại nhạc). Về giọng điệu, bộ phận nhạc này chủ yếu dựa trên các điệu thức Bắc, tức là những điệu thức cuả thang 5 âm thiên nhiên xây dựng theo vòng quãng 5 đúng.
2. Dân ca
Thành phần dân ca trước hết bao gồm những điệu hay là những "giọng" hò. Có những điệu hò lao động như "hò khoan", "hò mái sắp" (còn gọi là "hò giã gạo"), và "hò hụi" đặc biệt của vùng Quảng Bình, có tiết tấu nhịp nhàng và linh hoạt với những khúc thức điển hình của các vế "kể" do một người "hô" và vế "xô" do nhiều người "ứng".
Có những điệu hò trữ tình nổi tiếng của vùng sông Hương, đó là những điệu hò "Mái nhì", "Mái đẩy" có âm điệu vấn vương quấn quít, có khúc thức phóng khoáng như con đò lơ lửng trên sông, nói lên tâm tình của con người sống giữa thiên nhiên hiền hoà, "thơ mộng". Các điệu lý là những dân ca có khúc thức hoàn chỉnh, giai điệu gọt dũa và cân đối, giống như những điêụ điển hình trong hệ thống "Quan Họ". Nội dung các điệy lý rất gần với nội dung các câu ca dao tình tứ, đậm đà, duyên dáng: Lý Hoài Xuân, Lý Tử vi, Lý Tình Tang, Lý Năm canh...
Khác với dân ca miền Bắc thường xây dựng trên thang 5 bậc thiên nhiên, ở các điệu lý cũng như trong một số điệu hò, ta thấy xuất hiện những biến âm rất đặc sắc. Ảnh hưởng của tiếng nói miền Trung hay là ảnh hưởng của các nhân tố nhạc Chăm ? Dù sao, đã có những nhà nghiên cứu nêu lên đặc điểm của thang âm điệu hò "Mái đẩy", xa với thang 5 âm thiên nhiên quen thuộc, mà lại gần với loại thang 5 âm bình quân, một loại thang phổ biến trong âm nhạc dân gian Indonesia và cũng là loại thang âm, theo chúng tôi, rất gần với chuỗi âm có thể thấy ở một loại kèn trong âm nhạc Chăm.
Khác với hò, lý có tinh' giai điệu hoàn chỉnh và điêu luyện, "kể vè" miền Trung, cũng giống như vè miền Bắc, thực chất có thể xem như một lối nói nhịp nhàng và âm điệu hoá, thích hợp cholối diễn đạt tự sự để kể lại những câu chuyện có tình tiết, có đầu đuôi. Hò, lý, vè hoàn toàn thuộc phạm trù nhạc hát - trong truyền thống, nó không yêu cầu có nhạc khí phụ hoạ - vận dụng chủ yếu trên lối thơ 6-8 và các biến thể của thơ 6-8, nguồn gốc dân gian của nó thật trong sáng.
3. Ca Huế
Giữa nhạc lễ với tính chất cơ bản là nhạc đàn, xây dựng chính yếu trên hệ thống điệu thức Bắc có nhiều tiêu chuẩn của âm nhạc chuyên nghiệp, "cổ điển" và "dân ca" với tính chất cơ bản là nhạc hát, giọng điệu phát triển do nhiều nguồn tiếp thu, gắn liền với sinh hoạt nghệ thuật không chuyên trong dân gian, các điệu "Ca Huế" có một vị trí riêng cả về nguồn gốc và tính chất.
Một số điệu ca Huế như "Phẩm tuyết", "Long ngâm", "Ngũ đối"... thực chất là những tiết mục nhạc lễ được đặt lời ca, mang âm hưởng điệu thức Bắc rõ rệt. Một số điệu như "Nam bình", "Nam ai", "Tứ đại cảnh" thì lại gần với một số câu hò, lý về âm điệu và điệu thức, có dấu vết ảnh hưởng của âm nhạc Chăm. Lời ca Huế, nói chung, không xây dựng trên cơ sở thơ 6-8 hoặc vè, mà lại gần như một thứ lời tự do (trong các bài ca gốc nhạc lễ), chứng tỏ phương háp vận dụng ở đây là lối phổ lời (trên một điệu nhạc có trước), hoặc giống lối sắp đặt của "từ khúc" (một lối thơ tự do theo truyền thống cổ với mục đích để phổ nhạc lên thành bài hát) như các điệu "Nam ai, Nam bình, Tứ đại cảnh".
Về mặt khúc thức, các điệu ca Huế thường có qui mô lớn hơn và phức tạp hơn các điệu dân cạ Trong hình thức điển hình như bài "Hành vân", "Lưu thủy", hay "Tứ đại cảnh", nó thường gồm một số "sắp" (tức là những đoạn hoàn chỉnh) gắn bó nhau chặt chẽ, rất gần với cấu trúc "khai, thừa, chuyển, hợp" trong luật thơ cổ truyền.
Về mặt trình diễn, ca Huế luôn luôn đòi hỏi phần phụ hoạ của nhạc khí (ở đây chủ yếu là các đàn nguyệt [kìm], tỳ [tỳ bà], tam, tranh [thập lục], nhị [cò], và phách [sinh tiền]; về mặt này, nó giống vớ hình thức "Ca Trù" ngoài Bắc.
Như vậy, có thể nói, ca Huế là một thể loại nhạc hát mang nhiều yếu tố chuyên nghiệp "trí thức" về cấu trúc và phong cách biểu diễn. Nhưng về nội dung âm nhạ của nó thì bộ phận đặc sắc nhất lại chịu ảnh hưởng rõ rệt của hò, lý dân gian. Chính từ sự kết hợp hài hoà của hai luồng giao thoa đó đã làm cho ca Huế có một phong vị đặc biệt, không những thoả mãn được yêu cầu thẩm mỹ của giới "quí tộc phong lưu", các sĩ phu phong kiến (ngày trước), mà còn được dân chúng hâm mộ Chính ca Huế, cùng với các điệu lý, hò đã tạo nên bộ mặt của nhạc Huế được biết đến rộng rãi ở ngoài Bắc cũng như trong Nam. Và cũng vì vậy, nên một thời gian nhạc Huế ở Bắc được gọi là "Ca Lý Huế".
ĐD(theo Nhạc Việt)