ClockThứ Ba, 30/11/2021 07:00

Phát triển lâm nghiệp bền vững

TTH - Phát triển lâm nghiệp bền vững (LNBV) là chủ trương, chương trình lớn góp phần quan trọng thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, nâng cao chất lượng và độ che phủ rừng, ứng phó biến đổi khí hậu. Để nhìn nhận rõ hơn về những thành tựu, hạn chế, khó khăn cũng như các giải pháp thúc đẩy phát triển LNBV, chúng tôi có cuộc trao đổi với ông Lê Ngọc Tuấn, Chi cục trưởng Chi cục Kiểm lâm tỉnh.

HTX lâm nghiệp bền vững: Hướng đi trong phát triển kinh tếBảo vệ, phát triển rừng bền vững

Ông Lê Ngọc Tuấn, Chi cục trưởng Chi cục Kiểm lâm tỉnh

Những năm gần đây, ngành lâm nghiệp có nhiều chuyển biến tích cực trong đầu tư phát triển rừng sản xuất, phục hồi và bảo vệ khá hiệu quả rừng tự nhiên, đặc dụng. Ông có thể nói rõ hơn vấn đề này?

Cùng với chủ trương cả nước, tỉnh Thừa Thiên Huế cũng đã có Chương trình phát triển LNBV giai đoạn 2016-2020. Quá trình thực hiện chương trình này đã triển khai chính sách đặc thù hỗ trợ đồng bào dân tộc thiểu số, huy động nhiều nguồn lực đầu tư bảo vệ và phát triển rừng đặc dụng, rừng phòng hộ, rừng sản xuất; từ đó nâng cao trách nhiệm về công tác bảo vệ và phát triển rừng bền vững cho người dân và các đối tượng liên quan.

Sự chuyển mình và phát triển mạnh trong thời gian qua, ngành lâm nghiệp đóng góp rất lớn cho sự phát triển kinh tế địa phương. Trong đó, giải quyết một lượng lớn công ăn việc làm ổn định cho người dân, góp phần tăng thu nhập, xóa đói giảm nghèo. Thông qua các hoạt động liên quan đến sản xuất lâm nghiệp như gieo ươm cây con, trồng và chăm sóc, khai thác, chế biến lâm sản, các dịch vụ kèm theo, hằng năm số lao động có việc làm ở khu vực nông thôn, miền núi tăng lên đáng kể, nhiều hộ gia đình thoát nghèo và giàu lên từ rừng.

Ngành lâm nghiệp đóng góp chung vào cơ cấu kinh tế ở lĩnh vực nông, lâm, thủy sản luôn đạt mức từ 8% trở lên so với cơ cấu kinh tế (GRDP) của tỉnh. Hoạt động trồng rừng gỗ lớn gắn với chứng chỉ rừng FSC giúp gia tăng giá trị sản phẩm cho ngành lâm nghiệp, tạo đà cho sự phát triển mạnh của ngành công nghiệp chế biến gỗ và lâm sản xuất khẩu theo hướng tạo ra sản phẩm có chất lượng, thẩm mỹ; từ đó từng bước đáp ứng nhu cầu thị trường “khó tính” trên thế giới, hạn chế xuất khẩu nguyên liệu thô. Ngành chế biến gỗ, lâm sản trở thành ngành hàng xuất khẩu chủ lực trong nhóm ngành hàng nông, lâm, thủy sản, đóng góp quan trọng đối với phát triển kinh tế của tỉnh.

Rừng trồng phòng hộ, đặc dụng, sản xuất góp phần rất lớn trong hoạt động bảo vệ môi trường sinh thái, bảo tồn đa dạng sinh học và thích ứng với biến đổi khí hậu. Tính riêng trong 5 năm qua, diện tích trồng rừng tập trung toàn tỉnh 26.716ha; trong đó rừng phòng hộ, đặc dụng 2.016ha, rừng sản xuất 24.700ha; trồng 3,3 triệu cây trồng phân tán. Đến năm 2021, toàn tỉnh có hơn 10.000ha chuyển đổi từ rừng gỗ nhỏ sang gỗ lớn với diện tích được cấp chứng chỉ quản lý rừng bền vững 9.926ha.

Tuy đạt những thành tựu đáng ghi nhận, nhưng thực tế vẫn còn nhiều hạn chế, bất cập trong quản lý, bảo vệ và phát triển rừng trong thời gian qua - đâu là nguyên nhân thưa ông?

Có thể thấy rất rõ diện tích và chất lượng rừng có chiều hướng tăng, nhưng cơ cấu cây trồng chưa đa dạng, mức độ rủi ro khá cao, năng suất và hiệu quả còn thấp. Rừng trồng chủ yếu là thuần keo nên nguy cơ thiếu bền vững và dễ bị tổn thương trước tác động của thiên tai, dịch bệnh. Diện tích đất trồng rừng phần lớn manh mún, nhỏ lẻ ở vùng sâu, vùng xa, nơi có điều kiện đi lại khó khăn trong hoạt động trồng rừng. Thời tiết diễn biến phức tạp, nắng nóng gay gắt kéo dài gây khó khăn đến hoạt động trồng rừng. Tình trạng chăn thả rông gia súc, gia cầm thiếu sự kiểm soát làm ảnh hưởng đến sinh trưởng và phát triển rừng trồng mới.

Người dân chăm sóc rừng keo

Nhiều chủ rừng chưa chủ động được nguồn giống, đặc biệt là các loài cây bản địa. Cây giống được mua từ nhiều địa phương khác nhau, chưa được khảo nghiệm về khả năng thích nghi tại địa phương. Do đó, một số diện tích rừng trồng sinh trưởng và phát triển kém phải chăm sóc, tra dặm nhiều lần nhằm đảm bảo mật độ, nghiệm thu theo quy định. Hoạt động chuyển giao khoa học - kỹ thuật, xây dựng và nhân rộng các mô hình lâm nghiệp bền vững, hiệu quả còn hạn chế. Việc ứng dụng công nghệ sinh học, công nghệ thông tin vào hoạt động lâm sinh chưa đáp ứng nhu cầu, do nguồn lực tài chính cũng như nhân lực còn hạn chế.

Phát triển rừng chưa thực sự gắn kết với công nghiệp chế biến và thị trường tiêu thụ. Chế biến lâm sản thời gian gần đây tuy phát triển khá nhanh, nhưng còn thiếu bền vững. Các nhà máy thu mua lâm sản chủ yếu xuất khẩu nguyên liệu thô, chưa chú trọng đầu tư máy móc theo dây chuyền khép kín, chế biến thành phẩm nhằm nâng cao giá trị kinh tế. Vốn đầu tư, hỗ trợ cho lĩnh vực lâm nghiệp còn thiếu, chưa đáp ứng nhu cầu phát triển. Nguồn vốn đầu tư từ ngân sách Trung ương còn thấp và chậm phân bổ ảnh hưởng đến tiến độ thực hiện chương trình phát triển LNBV. Vì vậy chủ yếu tập trung cho công tác quản lý, bảo vệ, chưa chú trọng đến công tác phát triển rừng và trồng mới rừng phòng hộ, đặc dụng và thực hiện một số các hạng mục mang tính cấp bách, cần thiết.

Vậy làm thế nào để khắc phục hạn chế, bất cập, hướng đến phát triển LNBV một cách hiệu quả?

Trước hết phải tăng cường phổ biến, lồng ghép tuyên tuyền sâu rộng nhằm nâng cao nhận thức về phát triển LNBV cho các địa phương, ban, ngành, chủ rừng bằng nhiều hình thức, như xây dựng mô hình trình diễn, tổ chức tập huấn, xây dựng tờ rơi, phổ biến sâu rộng trên các phương tiện truyền thông đại chúng thông qua huy động nguồn vốn từ ngân sách Nhà nước, các tổ chức phi Chính phủ… Trong chương trình tập huấn chú trọng hướng dẫn quy trình kỹ thuật trồng rừng gỗ lớn và chuyển hóa rừng trồng gỗ nhỏ sang gỗ lớn.

Giống cây lâm nghiệp được xem là yếu tố hàng đầu trong hoạt động nâng cao năng suất và chất lượng rừng trồng. Từ đó đẩy mạnh nghiên cứu, tuyển chọn các loài cây trồng lâm nghiệp thích hợp cho mỗi vùng sinh thái khác nhau, có khả năng tăng trưởng nhanh, tạo sinh khối lớn, có năng suất, chất lượng cao. Trong đó, chú trọng gieo ươm các loài cây bản địa có giá trị kinh kế và bảo tồn cao theo phương châm ba tại chỗ: “giống tại chỗ, gieo ươm tại chỗ, trồng rừng tại chỗ”.

 Các loài cây rừng đưa vào trồng đại trà phải khảo nghiệm khả năng thích nghi với điều kiện lập địa, đồng thời đẩy mạnh ứng dụng công nghệ tiên tiến trong tạo giống cây trồng. Việc nâng cao năng suất và chất lượng rừng còn thông qua việc phát triển rừng trồng sản xuất có năng suất cao, nâng cao tỷ lệ gỗ nguyên liệu cung ứng cho công nghiệp chế biến và xuất khẩu đồ gỗ. Ngành lâm nghiệp cùng với các địa phương lồng ghép có hiệu quả các chính sách, chương trình, dự án hỗ trợ về lâm nghiệp như làm giàu rừng, trồng cây dược liệu.

Muốn phát triển LNBV, theo ông việc xã hội hóa nghề rừng nhằm thu hút nguồn vốn đầu tư trồng rừng cũng như ổn định thị trường tiêu thụ phải được quan tâm, thực hiện như thế nào?

Ngành lâm nghiệp cùng với các địa phương, ban, ngành có các biện pháp hỗ trợ, khuyến khích nhằm thu hút các doanh nghiệp có tiềm lực đầu tư vào lâm nghiệp. Nhất là đầu tư các nhà máy chế biến sâu với công nghệ hiện đại, tiên tiến kết hợp nghiên cứu thị trường, xúc tiến thương mại nhằm hỗ trợ tìm kiếm, mở rộng thị trường tiêu thụ lâm sản.

Có cơ chế, chính sách khuyến khích mở rộng các hình thức liên doanh, liên kết giữa nhà đầu tư có tiềm lực về kỹ thuật, tài chính và chế biến, tiêu thụ sản phẩm với các chủ rừng là công ty lâm nghiệp, các chủ rừng có quỹ đất trồng rừng sản xuất, các hộ gia đình. Chủ rừng có thể cho nhà đầu tư thuê hoặc góp cổ phần bằng quyền sử dụng rừng và đất lâm nghiệp với nhà đầu tư. Ngành lâm nghiệp và các chủ rừng huy động các nguồn vốn chi trả dịch vụ môi trường rừng, vốn viện trợ của các tổ chức nước ngoài, các doanh nghiệp Nhà nước, doanh nghiệp tư nhân và vốn trong dân nhằm đảm bảo điều kiện tái đầu tư sau khi khai thác, thu hoạch rừng trồng.

Các chủ rừng liên doanh, liên kết với các doanh nghiệp thu mua gỗ và thực hiện cam kết bảo hiểm khi diện tích rừng trồng gặp rủi ro do thiên tai, dịch bệnh nhằm hướng đến ổn định thị trường tiêu thụ các sản phẩm gỗ nguyên liệu. Cần nghiên cứu chính sách tiêu thụ lâm sản hợp lý, có lợi cho người sản xuất, trong đó chú trọng các sản phẩm từ rừng trồng; khuyến khích tiêu thụ hàng lâm sản nội địa thay hàng nhập khẩu và đẩy mạnh xuất khẩu lâm sản.

- Xin cảm ơn ông!

Hoàng Triều (thực hiện)

ĐÁNH GIÁ
Hãy trở thành người đầu tiên đánh giá cho bài viết này!
  Ý kiến bình luận

BẠN CÓ THỂ QUAN TÂM

Dấu ấn giảm nghèo bền vững ở Quảng Điền

Với mục tiêu giảm nghèo nhanh và bền vững, tiến đến đạt chuẩn huyện nông thôn mới (NTM) nâng cao, Quảng Điền đã triển khai đồng bộ, linh hoạt nhiều giải pháp an sinh xã hội. Trong đó, việc ưu tiên nguồn lực cho phát triển kinh tế - xã hội gắn với các mô hình giảm nghèo hiệu quả được ưu tiên triển khai đã góp phần giúp nhiều hộ thoát nghèo.

Dấu ấn giảm nghèo bền vững ở Quảng Điền
Phát triển các dịch vụ nông thôn thông minh

Trong thời kỳ cách mạng công nghiệp 4.0, việc áp dụng công nghệ trong dịch vụ nông thôn giúp nâng cao hiệu quả và chất lượng cuộc sống của người dân, đồng thời thúc đẩy sự phát triển bền vững và hiện đại hóa khu vực này. Để làm được điều này, mô hình xã nông thôn mới thông minh là lựa chọn tối ưu.

Phát triển các dịch vụ nông thôn thông minh
Return to top