Mười sáu tuổi vô thành phố đi học. Đi vài tháng, nhớ mạ nhớ ngoại quá chừng quay trở ra, rồi lại được “dẫn độ” trở vào. Bao năm rồi chừ nó có một căn bếp vài chục mét vuông sáng đèn với tủ ốp tường, tủ lạnh, lò nướng, vi sóng, bệ rửa, xoong nồi sáng bóng. Có thể đã phần nào thỏa mãn cho những người đàn bà trong “vương quốc” bếp núc thời công nghệ, nhưng nó thì cứ thấy thiêu thiếu nhạt nhạt chi đó. Thật ra là vì nó “nghiện” mùi khói.
Thời của nó ở quê, sáu bảy tuổi đã biết bồng em quyét nhà. Tám chín tuổi nấu cơm, mót lúa, nấu cám heo, tưới cây, đôi khi giã gạo giúp mạ. Ba nó biền biệt chiến trường, mạ vừa dạy học, vừa ruộng vườn nuôi con. Đất trồng cấy năm hai vụ nộp thuế xong nhiều mùa chỉ còn đủ bữa bơ gạo độn khoai. Nghèo cực là rứa, nhưng góc bếp mạ luôn tươm tất gọn gàng. Mạ dạy con gái nấu nướng những món quê đơn giản thanh tao. Nó biết chùi soong bằng xơ mướp trụng nước sôi úp lên giá gỗ. Chén đọi dăm ba cái đủ loại cũ mới vẫn thơm tho sạch sẽ. Nó nhớ như in cái giàn bếp của mạ. Là cái giàn gỗ đen bóng có đủ thứ quanh năm xông khói ở đó. Trên chùm bắp mới hái, hành củ, tỏi thơm treo lủng lẳng là những thúng mủng rá mây tre ngoại đan. Thịt heo nhà chia một phần từ hàng xóm ủ muối để ăn dần cũng treo lên giàn bếp. Đồ dùng qua vài ba tháng đã có màu vàng nâu bóng không còn sợ mối mọt. Trong mùi vị lát thịt, miếng canh rau cũng có mùi khói. Trong bộ đồ mới may, nồi nước gội đầu chanh sả cũng vương mùi khói. Khói ám ảnh cả những giấc mơ bay của nó. Một giấc mơ lặp đi lặp lại từ khi là đứa trẻ tóc bím, qua biết bao khúc sông con đường buồn vui.
Nó chẳng bao giờ thấy bất tiện hay khó thở khi dưới không gian xanh cây lá có thoang thoảng mùi khói. Đến mức ở phố mỗi lần đi ngang ngôi chùa nhỏ hoặc khu vườn ai đó thấy người ta vun lá đốt nó cũng hít hà vài hơi cho đã.
Nhớ cái góc bếp của mạ là nhớ cái cối xay. Sắp đặt kiểu chi thì cái cối xay cũng luôn ở đó. Cối xay đan bằng tre đóng cọc gỗ nhồi đất sét chia làm hai thớt để xay và sàng. Nó từng đọc truyện Kiều hoặc các bài thuộc lòng khi xay lúa. Từng nấp vào cái góc hẹp của cối xay và cánh cửa gỗ trốn mạ đọc sách “Thép đã tôi thế đấy”, “Ruồi trâu”...
Những mùa đói kém thiếu hụt, những trận bão mưa tốc mái, bếp chơ vơ hai bộ kiềng ám khói và nồi niêu úp ngửa. Mạ ngồi trước ngọn đèn mù mù bóng in trên vách bếp rang nồi muối đậu, nghiêng lu vét mấy lon gạo cho con canh ba đi học trường huyện. Không dám nhìn mạ, nép sau cánh cửa, nó khóc.
Mấy hôm rồi trời làm giông buổi chiều suốt. Nó vẫn nhớ lời ngoại dặn con yếu người, tránh ra ngoài trời mưa, cảm hàn. Lỡ ướt thì mau tắm gội và uống ly trà gừng nóng. Ở phố con đi giày ấm quanh năm, nắng có áo mũ che, mưa chỉ ngồi trong cửa ngó ra, mấy khi chạy rong ngoại à. Rứa mà đôi khi nó giật mình nghe trong tiếng sấm báo giông và cơn mưa thình lình đổ xuống có tiếng ngoại gọi “ôm củi khô vô bếp đi con”. Nhìn mưa qua cửa kính, mắt nó nhòe đi cứ như khói củi ướt mưa năm nào.
Hồi này góc bếp nhà mạ đã thành phòng bếp rộng có hai cửa sổ, bàn ăn và đôi chiếu dài phòng khi con cháu ở xa về đông đủ. Những gốc chanh, bưởi, tiêu ngoại trồng khi nó lên chín mười tuổi chừ um tùm lá xanh và quả. Từ góc bếp ngó ra, nắng sớm lấp lánh màu lục ngọc. Và khu vườn bồng bềnh trong làn khói từ mái bếp lan ra như những giấc mơ phố nó thường mơ mộng ngày xưa.
BẠCH DIỆP