|
Khách hành hương thăm di tích ngục Kon Tum. Ảnh: Hy Khả |
Rừng thiêng nước độc Đăk Glei
Một đoạn trong tạp văn “Đi đày” của cựu tù Đoàn Bá Từ đã miêu tả cảnh hoang vu quanh ngục Đăk Glei: “Rừng, chỉ toàn là rừng núi. Tăm tắp quanh mình, những đợt núi cao vu vút đứng sững giữa trời, trên lưng chừng núi, mấy con đường mòn đất đỏ ngoằn ngoèo hiện lên giữa đám cây xanh tựa hồ như mấy con đại xà nằm phơi mình mặc cho nắng sương dầm dãi”.
Ngục Đăk Glei từ khoảng sau năm 1933 là nơi thực dân Pháp giam cầm các chính trị phạm mà không đưa ra xét xử và không biết khi nào được thả về. Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh viết trong hồi ký “Kể lại cuộc đời”: Lúc đó phát xít Đức đang chuẩn bị đánh Pháp, sợ cách mạng nhân cơ hội này đẩy mạnh hoạt động, để rảnh tay đối phó, Pháp bắt tất cả những người bị tình nghi đày biệt xứ lên Căng Đăk Glei. Tuy không tra tấn, ngược đãi tàn bạo như những nơi khác, nhưng đây là vùng rừng thiêng nước độc, “tù phạm dễ bị chết dần chết mòn vì không quen thung thổ và bệnh sốt rét không đủ thuốc chữa”. Số người bị tạm giam có lúc lên đến 100 người; trong đó, có nhiều nhà cách mạng kiên trung: Hoàng Anh, Nguyễn Duy Trinh, Lê Văn Hiếu, Chu Huy Mân, Bùi Công Trừng, Hà Huy Giáp…
Hồi ký “Trở lại Kon Tum” của Lê Văn Hiến có kể lại chuyện có đồng chí bị sốt rét nặng, không có thuốc chữa, đã tự sát vì tuyệt vọng. Lập tức anh em họp thảo luận, kiểm điểm cần nêu cao tinh thần cách mạng và tiếp tục đấu tranh yêu cầu phải có bác sĩ khám sức khỏe và bảo đảm thuốc men cho người tù bị bệnh. Yêu cầu này sau đó buộc Pháp chấp thuận. Đến tháng 6/1942, sau sự kiện hai chính trị phạm Tố Hữu và Huỳnh Ngọc Huệ trốn thoát khỏi Căng Đăk Glei, Pháp cho chuyển hết chính trị phạm về Trại giam Đăk Tô, chỉ còn giữ tù thường phạm.
“Tiếng hát đi đày” ở ngục Đăk Glei
Khoảng cuối năm 1941, nhà thơ Tố Hữu bị đày lên Ngục Đăk Glei. Chỉ thời gian rất ngắn, Tố Hữu đã làm được cả một tập thơ ở đây. Có những bài thơ như “Thác lụa”, “Dưới dòng thác đổ” được một số anh em tù chính trị thuộc, song sau này thì không ai lưu giữ, nay đã thất truyền.
Một điều ít người biết là có cả một tập thơ của Tố Hữu đã phải tự hủy ở đây. Trong hồi ký “Trở lại Kon Tum”, đồng chí Lê Văn Hiến kể: “Sáng mồng 4/6/1942, chúng tôi lên đường từ Đăk Glei để tới Đăk Tô (…). Để đề phòng địch lục soát tài liệu…, ngay trong đêm ấy, anh em nhất trí hủy tất cả giấy tờ, văn bản, không giữ lại một mảnh giấy, sợ địch vin cớ khủng bố. Ngoài số tài liệu ra, chúng tôi tiếc nhất là tập thơ của Tố Hữu cũng phải hủy”.
Nhưng có một bài thơ rất nhiều người biết và thuộc, đó là bài “Tiếng hát đi đày” viết ở ngay Đăk Glei tháng Giêng năm 1942: “…Đường lên xứ lạ Kông Tum/ Quanh quanh đèo chật, trùng trùng núi cao/ Thông reo bờ suối rì rào/ Chim chiều chíu chít, ai nào kêu ai?/…Chao ôi, xưa cũng chốn này đây/ Thân bạn vùi xương dưới gốc mây/ Roi vụt nát tay bầy lính rợ/ Máu đầm khoái mắt lũ đồn Tây!/ Mỗi hòn đá đó bao hòn huyết/ Một khúc cầu đây, mấy khúc thây!/ Hỡi những anh đầu qua trước đó/ Biết chăng còn lắm bạn đi đày!...”. Trong hoàn cảnh khắc nghiệt ở Đăk Glei, nhà thơ Tố Hữu cùng bạn tù vẫn tổ chức nhiều hoạt động sôi nổi. Họ làm một lúc hai tờ báo: “La-za-rê” và “Chàng làng”. Ngày Tết, ra tạp chí “Mùa Xuân”… Báo đã phản ánh sinh hoạt của trại, vừa giúp anh em giải trí song ngầm nhắc nhau giữ vững khí tiết cách mạng.
Dịp Tết năm 1942, những người Cộng sản thành lập Ban Tổ chức Tết. Chiều Ba mươi, tổ chức được một “bữa tiệc thịnh soạn”, tối giao thừa tổ chức tấu hài “Táo quân với Ngọc Hoàng”, đem lại tiếng cười sảng khoái. Ban Văn nghệ hôm nay tổ chức diễn tuồng “Tốn Địch Thanh chinh tây” do Lê Thế Hiếu soạn. Hôm khác lại diễn kịch “Một người ba vai” do Hà Thế Hạnh soạn kịch kiêm đạo diễn, diễn viên… Điều lý thú là trong các đêm diễn, cai ngục, lính gác và đồng bào dân tộc kéo nhau đến xem rất đông, khiến bà con càng thêm có cảm tình với những người cách mạng.
Nhà thơ Tố Hữu trong “Nhớ lại một thời” kể: “Tôi soạn một vở kịch ngắn về tình đoàn kết trong bản làng, giúp nhau làm rẫy, trồng lúa, uống rượu cần… Một số anh đóng vai nam người dân tộc, một số đóng vai con gái hát nhảy (…). Trên sân khấu, tôi xuất hiện như một ca sĩ, môi son má phấn, lại có mái tóc dài, ngực độn hai trái cà chua lớn dưới áo màu xanh… Tên trưởng đồn thấy “gái” cười tít mắt…”
Tháng 3/1942, nhà thơ Tố Hữu quyết định bí mật vượt ngục cùng với đồng chí Huỳnh Ngọc Huệ. Nhà thơ Tố Hữu đã điều nghiên rất kỹ, sau đó bàn với các đồng chí trong tù như Lê Văn Hiến, Nguyễn Trọng Vĩnh… ở lại tìm cách cản địch truy sát. Nhà thơ Tố Hữu và Huỳnh Ngọc Huệ vượt ngục thành công. Các bạn tù đã làm hình nộm giả làm Tố Hữu đang ngủ, đánh lừa cai ngục điểm danh. Phải nửa tháng sau, khi Tố Hữu đã an toàn, cai ngục mới phát hiện là nhà thơ đã trốn thoát.
Sau khi vượt ngục thành công, nhà thơ Tố Hữu ra Thanh Hóa, bắt liên lạc với Đảng. Đến năm 1945, khi Cách mạng Tháng Tám bùng nổ, nhà thơ trở về Huế tham gia khởi nghĩa và được bầu làm Chủ tịch Ủy ban Khởi nghĩa Thừa Thiên - Huế.
Nhiều ý kiến cho rằng, với bài thơ “Tiếng hát đi đày” cùng những hoạt động khác của nhà thơ Tố Hữu ở Đăk Glei, người dân Kon Tum đã yêu mến, kính trọng ông, nên gọi tên “Ngục Đăk Glei” thành tên khác là “Ngục Tố Hữu”. Bây giờ, nhiều du khách vẫn vượt rừng để đến tận Ngục Đăk Glei nằm giữa rừng già, để nghe trong gió vọng về câu thơ thuở nào trong bài “Tiếng hát đi đày”:
“Đồn xa heo hắt cờ bay
Hiu hiu phất lại, buồn vây vây lòng…”.