|
Hoàng cung Huế “băng nước” trong một trận lụt |
Kinh hoàng
Đó là trận lụt kèm bão lớn cấp 11 ở Trung kỳ, khu vực ảnh hưởng trực tiếp từ Quảng Bình đến Quảng Nam, tâm bão nằm giữa sông Quảng Trị đến mũi Chân Mây thuộc phủ Thừa Thiên. Trước khi trận bão ập đến, ngày 10/9/1904, mưa lớn xảy ra ở Huế và nhiều nơi khác khiến nước dâng cao, gây ngập lụt đôi bờ sông Hương. Từ 4h sáng ngày 11/9/1904 bão gây ảnh hưởng trực tiếp ở Huế và các huyện trong phủ Thừa Thiên. Lụt kèm bão gây ra thảm họa nặng nề về cơ sở vật chất, tính mạng con người.
Nhà nghiên cứu Nguyễn Quang Trung Tiến (Hội Khoa học Lịch sử Thừa Thiên Huế) là người đã đi tìm lại rất nhiều tư liệu liên quan đến trận bão kinh hoàng này cho hay, tổn thất có thể kể tới là 4 vài cầu (vì cầu) Trường Tiền bị thổi bay xuống sông, đình Hương Nguyện ở chùa Thiên Mụ bị đổ sập, cột cờ bằng gỗ trên Kỳ đài Kinh thành bị gãy, chợ Đông Ba mới dựng mấy năm cũng bị sập, hai dãy phòng học ở Trường Quốc Học bị cuốn phăng, cửa Thuận An cũ/cửa Eo ở Hòa Duân bị bồi lấp và mở ra cửa Thuận An mới ở vị trí hiện tại, hàng trăm người dân Huế và các huyện bị thiệt mạng...
Theo tờ báo La Lanterner ra ngày 28/10/1904 (ở Paris, Pháp) sơ bộ có 724 người chết hoặc mất tích, 23.657 ngôi nhà xây và nhà vách bị đổ sập, 518 thuyền bị hư hại, mùa vụ thu hoạch tổn thất nghiêm trọng… do trận bão gây ra. Trận bão này gây hệ lụy trầm trọng, ảnh hưởng lâu dài đến đời sống trên địa bàn, phải mất nhiều năm sau mới phục hồi. Kể từ thảm họa này, việc lựa chọn các mô hình kiến trúc thích ứng và có khả năng chịu đựng mưa bão ở Huế bắt đầu được đặt ra. Cụ thể, chức năng cứu hộ, cứu trợ trong và sau thiên tai của lực lượng quân đội, của các cơ quan chính quyền có trách nhiệm được đánh động và được đề cao hơn trước, trách nhiệm bình ổn thị trường, giá cả và ổn định đời sống của người dân sau thiên tai cũng được đặt lên vai của chính quyền quản lý.
“Cũng từ thảm họa này, xã hội Việt Nam bắt đầu biết kêu gọi tổ chức vận động từ thiện, lạc quyên cứu trợ các vùng bị thiên tai tàn phá. Tất cả đều là những bài học kinh nghiệm rất quý giá và bổ ích để vận dụng có hiệu quả cho công cuộc phòng, chống, cứu hộ, cứu trợ thiên tai của xã hội thời hiện đại”, nhà nghiên cứu Nguyễn Quang Trung Tiến phân tích.
Bài học cho hậu thế
Nghiên cứu tình hình lũ lụt ở Thừa Thiên Huế dưới Triều Nguyễn giai đoạn từ 1802-1884, PGS. TS. Đỗ Bang - Phó Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam dẫn chứng có rất nhiều trận lũ lụt kinh hoàng, như tháng 8 năm Tân Mùi (1811), tháng 10 năm Canh Thìn (1820), tháng 9 năm Nhâm Ngọ (1822), tháng 8 năm Quý Mùi (1823), tháng 9 năm Bính Ngọ (1846), tháng 10 năm Mậu Thân (1848)…
Theo ông Bang, các vua Nguyễn đã rất nghiêm khắc xử lý các quan chức thiếu trách nhiệm. Các vua cũng đã xuống chiếu về các biện pháp phòng, chống, cứu trợ cho dân chúng khi bị bão lụt như chẩn cấp gạo, nấu cơm muối kịp thời cho dân bị nạn; xuất kho cho vay, giảm giá bán, thế chấp, cấm tích trữ, vơ vét lương thực, thuê thuyền nước ngoài tải gạo cứu trợ; xuất kho dự trữ trung ương hoặc điều thóc giữa các tỉnh để cứu trợ, tổ chức lạc quyên, quy dân phiêu tán, chữa bệnh, cấp thuốc men, giúp đỡ trẻ em; các biện pháp miễn, giảm, hoãn thuế và sưu dịch hay thu thuế thay thóc bằng tiền cho dân.
“Tuy phương tiện và kỹ thuật dự báo thời tiết, phòng, chống thiên tai, cứu hộ mỗi khi gặp bão lụt còn thô sơ, chưa đáp ứng kịp thời và hiệu quả như ý muốn, nhưng cũng đã giảm bớt thiệt hại, xoa dịu nỗi đau, khốn khó cho dân chúng, điều này đã để lại dấu ấn nhân văn, bài học kinh nghiệm cho hậu thế đáng trân trọng”, ông Bang nhận định.
Nghiên cứu sâu hơn dưới thời vua Minh Mạng, TS. Phan Thanh Hải, Giám đốc Sở Văn hóa và Thể thao nói rằng, kể từ khi lên ngôi, vị vua này đối mặt rất nhiều thách thức lớn. Ngoài tình hình chính trị do các lực lượng chống đối thì thiên tai, dịch bệnh cũng vô cùng khốc liệt, xảy ra trên cả nước. Nhà vua đã đưa ra nhiều giải pháp khẩn cấp để cứu trợ dân chúng như mở kho chẩn tế, hỗ trợ việc chôn cất người chết... Đồng thời, lệnh cho các địa phương lập sổ Nhật ký phong vũ để ghi chép báo cáo tình hình thiên tai kịp thời. Ngoài ra, nghiêm trị những kẻ lợi dụng thiên tai, dịch bệnh để trực lợi.
Không dừng lại đó, nhà vua còn đưa ra các giải pháp căn cơ lâu dài. “Dù trong bất cứ thảm họa do thiên nhiên hay dịch bệnh gây ra, hoàng đế Minh Mạng và triều đình mà ông điều hành đều không nao núng. Ngược lại, luôn nỗ lực vượt qua, đảm bảo bộ máy từ trung ương đến địa phương được vận hành thông suốt để người dân cảm thấy triều đình luôn sát cánh, che chở”, ông Hải đúc kết và cho rằng nhờ đó mà sau mỗi lần bị thiên tai, dịch bệnh tình hình đã nhanh chóng được ổn định, đất nước tiếp tục phát triển và ngày càng hùng cường.