ClockChủ Nhật, 25/09/2016 18:07

Giữ linh hồn của núi

TTH - Mặc thời gian, mặc biến động chiêng, ché vẫn luôn là linh hồn của người Cơ Tu…

Cồng chiêng không thể thiếu trong đời sống văn hóa của người Cơ Tu

Trong sắc màu văn hóa của đồng bào phía thượng ngàn, chiêng, ché như trái tim của mọi lễ hội. Nhưng lần trở lại miền ngược này, thoáng chút tiếc nuối bởi không đúng dịp lễ hội và càng buồn hơn khi anh Hồ Văn Dưa (xã Thượng Long, huyện Nam Đông) bảo rằng, độ hơn chục năm về trước, khách đến nhà làng dù không đúng dịp cũng được thưởng thức ché rượu cần và âm thanh cồng chiêng. Anh Dưa thú thực: “Nhà tui đều biết đánh cồng chiêng nhưng không có chiêng. Mỗi lần muốn đánh phải đi mượn. Ché cũng không có để ủ rượu”.

Câu chuyện về chiêng, ché của người Cơ Tu được già Ta Rương Tôm tiếp nối tại nhà Gươl ở bản K’ Dong (xã Thượng Long, huyện Nam Đông). Sau một tuần umpalich (cạn ly), già Tôm ngập ngừng: “Giá như có ché rượu cần ở đây thì tốt biết mấy”. Rồi như muốn cởi “nút thắt” tâm can, già Tôm bảo rằng ngày xưa, trong ngôi nhà truyền thống này, hai ché rượu cần luôn được đặt cạnh bếp lửa, chiêng được treo bên góc nhà. Những vật dụng truyền thống nói trên của người Cơ Tu được họ xem như bổn mạng.

Ché là một trong những lễ vật trong đám cưới của người Cơ Tu

“Trước đây, chiêng ché để ở nhà Gươl là tục lệ của bản làng. Lớp thanh niên đi săn được con nai, con heo mang về nhà làng, lúc này, tiếng chiêng vang lên để ăn mừng thành quả. Rồi mọi người xoay quanh ché rượu cùng nhau ca hát. Umbual (uống rượu cần) không chỉ để giải trí, xua tan mệt mỏi sau ngày làm việc mà còn để tạo nên sợi dây liên kết giữa mọi người”, già Tôm trải lòng.

Chừng vài tuần umpalich, âm thanh cồng chiêng bỗng từ  xa vang vọng. Già Tôm cười xòa: “Boong boong boong…, boong boong…, chắc chắn làng bên có đám cưới, đó là tiếng chiêng đón khách. Trong các lễ hội của người Cơ Tu, âm thanh cồng chiêng rất quan trọng. Lễ dạm ngõ, lễ cưới, lễ đâm trâu, mừng lúa mới… không có tiếng cồng chiêng như món ăn thiếu muối”.

Chiêng ché của người Cơ Tu mang trong mình những điều thật khó lý giải. Kí ức của những già làng ở Nam Đông, sau bao cuộc di dân từ vùng đất xứ Quảng, dù có cách trở nhưng chiêng, ché luôn được họ giữ bên mình. Già Tôm kể, trước đây, khi đi rừng săn thú, âm thanh của chiêng chính là cách để báo hiệu cho nhau. “Thời ni có điện thoại liên lạc với nhau, ngày trước mần chi có. Liên lạc chỉ bằng tiếng chiêng mà thôi nên ai cũng biết đánh hết. Săn được hổ tiếng chiêng sẽ khác săn được heo, nai, gấu…”, già Tôm nói.

Khoảng thập niên 80 của thế kỉ trước, dân buôn ở xứ Quảng đến Nam Đông để lùng sục, tìm mua ché của người Cơ Tu. Nhiều gia đình vì khó khăn nên bán, từ đó số lượng ché tại Nam Đông giảm dần. “Quan niệm của người Cơ Tu, ché có giá trị bằng cả mạng sống. Nếu có đổi ché thì đổi bằng một con trâu to, khỏe nhất đàn. Hơn 20 năm trước, người Quảng Nam ra mua ché rất nhiều nhưng tui nhất quyết không bán. Bởi nó là một trong những tài sản quý. Chừ ché không ai làm nữa, bán đi thì sau ni có tiền cũng không mua lại được”, già làng A Tin (bản K’Rong) góp chuyện.

Hai chiếc ché cổ được già Ta Rương Tôm lưu giữ

Tại nhà riêng của các già làng, chiêng, ché được họ cất giữ cẩn thận, sắp xếp ngăn nắp ở vị trí trang trọng. Già làng A Tin sở hữu hơn 10 chiếc ché và 3 chiếc chiêng được lưu giữ mấy chục năm. Có cái bây giờ không còn công năng sử dụng nhưng già vẫn trân quý và không mang ra nhà làng bởi sợ thất lạc. “Ngày xưa chiêng, ché là lễ vật quan trọng trong đám cưới của người Cơ Tu. Tục thách cưới khiến nhiều gia đình phải bỏ cả gia tài để mua chiêng, ché làm lễ vật, cống nạp cho nhà gái. Nhưng nay, tục lệ đó đã dần phai mờ. Nhà nào có đông con gái, nhiều chiêng ché đa số họ mang bán lấy tiền, không mặn mà lưu giữ”, già A Tin thở dài.

Việc người dân không còn lưu luyến với chiêng, ché không hẳn là lý do khiến đồ vật được xem là linh hồn nơi thượng ngàn bị “hao hụt”. Theo nhiều người dân, những năm gần đây, giới săn cổ vật liên tục săn tìm ché cổ và ra giá cao khiến đồ vật từ rẻo cao xuôi về đồng bằng. Chuyện già làng Rapat Groc (bản A Xăng, xã Thượng Long) bán chiếc ché cổ tận mấy cây vàng hơn chục năm về trước khiến ai cũng tiếc hùi hụi, và thêm chuyện già Róc vì sơ ý bị những tên trộm lấy mất chiếc ché cổ trị giá 5 cây vàng. Hay việc anh Ta Rương Thanh đổi ché lấy vàng một thời xôn xao làng bản. Ché được đổi từ 3-10 cây vàng là câu chuyện hơn chục năm về trước.

Bây giờ, ở Nam Đông, già Ta Rương Tôm là một trong số ít người sở hữu được chiếc ché xuất hiện từ thế kỷ 17. Già bảo rằng, ché của người Cơ Tu có nhiều loại, loại nhỏ bằng ấm nước trà, loại lớn cao hơn 1m, to bằng một người ôm được dùng làm lễ vật, ủ rượu, đựng thổ cẩm, mã não, hạt cườm… “Kể tên thì không hết được, các loại ché phổ biến của người Cơ Tu, như thượng thùy, bon moi, hoa dây, K’roong… mỗi loại có các hoa văn khác nhau. Phân biệt ché cổ dựa vào các hoa văn này và âm thanh phát ra khi gõ.

“Tui có một chiếc ché cổ từ thế kỉ 17, mấy năm trước, có người đến hỏi mua với giá mấy chục triệu nhưng không bán vì với tui, ché còn là linh hồn của núi, của rừng” - câu nói của già Tôm khiến người nghe ấm lòng trên suốt chặng đường rời miền sơn cước trong chiều muộn, dẫu rằng người như già Tôm, già A Tin nay không còn nhiều.

Đối với người Cơ Tu, chiêng, ché là đồ vật thuộc về văn hóa, tâm linh và không thể thiếu trong cuộc sống đời thời. Hiện số lượng chiêng, ché tập trung nhiều ở xã Thượng Long. Bên cạnh tuyên truyền bà con lưu giữ chiêng, ché, phòng VHTT huyện Nam Đông đã thành lập nhà trưng bày. Đây là nơi để người dân có thể gửi chiêng, ché cổ mà không sợ bị thất lạc

Ông Hồ Văn Nhũ, Phó Trưởng phòng VHTT huyện Nam Đông

Bài, ảnh: Quỳnh Viên

 

ĐÁNH GIÁ
Hãy trở thành người đầu tiên đánh giá cho bài viết này!
  Ý kiến bình luận

BẠN CÓ THỂ QUAN TÂM

Người trẻ khắc họa bản sắc dân tộc

“Tôi muốn mỗi tác phẩm của mình không chỉ đẹp, mà còn phải kể được câu chuyện của người Cơ Tu, về cuộc sống, tín ngưỡng và những giá trị truyền thống mà cha ông để lại” - Phạm Văn Vệ, một chàng trai 26 tuổi với đam mê khắc họa bản sắc dân tộc qua từng đường nét gỗ chạm, chia sẻ.

Người trẻ khắc họa bản sắc dân tộc
Cơ hội và thách thức trong quản lý đô thị di sản của TP. Huế trực thuộc Trung ương

Với tính chất là đô thị di sản, trong chiến lược lâu dài, Thừa Thiên Huế sẽ được cấu trúc thành chùm đô thị đa trung tâm. Sự phát triển sẽ dựa trên các điều kiện về sự phân bổ dân số, điều kiện tự nhiên, sông ngòi, đầm phá, biển, khoáng sản…và đặc biệt các thế mạnh của tài nguyên văn hóa. Điều này cũng đặt ra nhiều cơ hội kèm thách thức một khi Huế trở thành thành phố trực thuộc Trung ương.

Cơ hội và thách thức trong quản lý đô thị di sản của TP Huế trực thuộc Trung ương
Xây dựng văn hóa ứng xử trong các cơ sở giáo dục

Ngày 18/12, Bộ Giáo dục và Đào tạo (GD&ĐT) tổ chức hội thảo đánh giá kết quả thực hiện Thông tư số 26/2017/TT-BGDĐT và Thông tư số 06/2019/TT-BGDĐT về quy định quy tắc ứng xử trong các cơ sở giáo dục. Hội thảo được tổ chức theo hình thức trực tiếp kết hợp trực tuyến. Điểm cầu tại Thừa Thiên Huế được tổ chức tại Sở GD&ĐT.

Xây dựng văn hóa ứng xử trong các cơ sở giáo dục
Phát triển văn hóa, du lịch Cố đô bằng âm nhạc truyền thống

Chiều 18/12, tại Khách sạn Saigon Morin diễn ra Hội thảo khoa học Quốc gia “Phát huy giá trị âm nhạc truyền thống Huế trong phát triển văn hóa, du lịch” do Liên hiệp các hội Khoa học và kỹ thuật tỉnh Thừa Thiên Huế phối hợp các cơ quan liên quan tổ chức.

Phát triển văn hóa, du lịch Cố đô bằng âm nhạc truyền thống
Văn hóa, thể thao và du lịch năm 2024 đạt kết quả rõ nét

Sáng 18/12, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính dự Hội nghị trực tuyến tổng kết công tác năm 2024 và triển khai nhiệm vụ trọng tâm năm 2025 của ngành văn hóa, thể thao và du lịch với chủ đề: “Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc - Động lực phát triển Đất nước trong kỷ nguyên mới – Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam”.

Văn hóa, thể thao và du lịch năm 2024 đạt kết quả rõ nét
Return to top