ClockThứ Ba, 13/10/2015 14:58

Chính sách an sinh xã hội phải phù hợp với phát triển kinh tế - xã hội

TTH - Dự thảo Báo cáo Chính trị của BCH Trung ương Đảng khóa XI trình Đại hội XII của Đảng đã đánh giá toàn diện những kết quả đạt được cũng như những hạn chế, yếu kém về phát triển kinh tế - xã hội, trong 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội XI và 30 năm đổi mới. Đây là đầu tiên dự thảo văn kiện trình bày một cách đầy đủ, toàn diện nội hàm về các chính sách an sinh xã hội, thể hiện đúng đắn quan điểm của Đảng ta, đồng thời đã xác định bốn nhóm chính sách, từ chính sách người có công đến lao động - việc làm; từ trợ giúp nhóm dân cư yếu thế dễ bị tổn thương đến giảm nghèo theo phương pháp tiếp cận đa chiều.

Theo tinh thần các chủ trương và quan điểm trên của Ðảng, Chính phủ đã được thể chế hóa thành hệ thống pháp luật, chính sách, kế hoạch, chương trình, dự án cụ thể để đưa vào cuộc sống. Các chương trình xóa đói giảm nghèo của Việt Nam ở tầm quốc gia được dư luận quốc tế thừa nhận và đánh giá cao, nhất là xóa đói giảm nghèo cho vùng nông thôn, miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Quan điểm của chúng tôi về phát triển xã hội, đảm bảo tiến bộ và công bằng, trước hết là tạo ra những điều kiện thuận lợi cho mọi công dân, kể cả những người yếu thế có cơ hội tiếp cận công bằng các nguồn lực phát triển và các dịch vụ xã hội cơ bản về giáo dục - đào tạo, chăm sóc sức khỏe, việc làm... để họ có thể cải thiện cuộc sống của bản thân, gia đình, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế - xã hội.

Để tiếp tục đẩy mạnh thực hiện các chính sách xã hội và an sinh xã hội hiện nay, chính sách ưu đãi người có công và an sinh xã hội phải phù hợp với trình độ phát triển kinh tế - xã hội và khả năng huy động, cân đối nguồn lực của đất nước…Ưu tiên người có công, người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, người nghèo và đồng bào dân tộc thiểu số. Các chính sách đảm bảo an sinh xã hội cần được phát huy. Chính sách ưu đãi người có công bảo đảm mức sống phải trên trung bình mức sống của người dân nơi cư trú. Chính sách bảo hiểm xã hội nhằm huy động sự tích góp một phần thu nhập của những người lao động lúc bình thường để dành cho lúc gặp khó khăn. Chính sách trợ cấp xã hội để hỗ trợ giúp những người yếu thế và dễ bị tổn thương như người tàn tật, người già cô đơn, trẻ em mồ côi, lang thang cơ nhỡ. Chính sách tương trợ xã hội, như phát huy truyền thống tương thân, tương ái “lá lành đùm lá rách” trong cộng đồng để giúp nhau vượt qua khó khăn, xóa đói, giảm nghèo, cải thiện đời sống.
Vấn đề tạo việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị, tăng tỷ lệ lao động ở nông thôn cũng cần lưu tâm. Công tác đào tạo nghề phải gắn nhu cầu của các doanh nghiệp cũng như điều kiện sản xuất từng địa phương, nhằm nâng cao thu nhập. Song, mặt khác, cũng cần chú trọng đầu tư cho các vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng căn cứ cách mạng và kháng chiến cũ, nhằm giảm dần khoảng cách, trình độ phát triển giữa các vùng miền. Cần đẩy mạnh hơn nữa công cuộc xóa đói, giảm nghèo, tập trung phần lớn ở những vùng nghèo, xã nghèo, nhất là xã đặc biệt khó khăn.
Những vấn đề này nếu không được giải quyết thỏa đáng và kiên quyết, thì khó có thể phát triển bền vững. Thế nên, cùng với những đầu tư về nguồn lực cho an sinh xã hội, chú trọng kết hợp nỗ lực của Nhà nước với xã hội và người dân, cần phải nỗ lực huy động các nguồn lực của các tổ chức quốc tế để có thêm nhiều điều kiện thực hiện an sinh xã hội. Cần phải đặc biệt đẩy mạnh cải cách thể chế, chính sách cũng như cơ chế quản lý, nâng cao hiệu lực quản lý của Nhà nước trong lĩnh vực.

Theo tinh thn các ch trương và quan đim trên ca Ðng, Chính ph đã được th chế hóa thành h thng pháp lut, chính sách, kế hoch, chương trình, d án c th đ đưa vào cuc sng. Các chương trình xóa đói gim nghèo ca Vit Nam tm quc gia được dư lun quc tế tha nhn và đánh giá cao, nht là xóa đói gim nghèo cho vùng nông thôn, min núi, vùng đng bào dân tc thiu s. Quan đim ca chúng tôi v  phát trin xã hi, đm bo tiến b và công bng, trước hết là to ra nhng điu kin thun li cho mi công dân, k c nhng người yếu thế có cơ hi tiếp cn công bng các ngun lc phát trin và các dch v xã hi cơ bn v giáo dc - đào to, chăm sóc sc khe, vic làm... đ h có th ci thin cuc sng ca bn thân, gia đình, góp phn thúc đy tăng trưởng kinh tế - xã hi.

Đ tiếp tc đy mnh thc hin các chính sách xã hi và an sinh xã hi hin nay, chính sách ưu đãi người có công và an sinh xã hi phi phù hp vi trình đ phát trin kinh tế - xã hi và kh năng huy đng, cân đi ngun lc ca đt nước…Ưu tiên người có công, người có hoàn cnh đc bit khó khăn, người nghèo và đng bào dân tc thiu s. Các chính sách đm bo an sinh xã hi cn được phát huy. Chính sách ưu đãi người có công bo đm mc sng phi trên trung bình mc sng ca người dân nơi cư trú. Chính sách bo him xã hi nhm huy đng s tích góp mt phn thu nhp ca nhng người lao đng lúc bình thường đ dành cho lúc gp khó khăn. Chính sách tr cp xã hi đ h tr giúp nhng người yếu thế và d b tn thương như người tàn tt, người già cô đơn, tr em m côi, lang thang cơ nh. Chính sách tương tr xã hi, như phát huy truyn thng tương thân, tương ái “lá lành đùm lá rách” trong cng đng đ giúp nhau vượt qua khó khăn, xóa đói, gim nghèo, ci thin đi sng.

Vn đ to vic làm, gim t l tht nghip thành th, tăng t l lao đng nông thôn cũng cn lưu tâm. Công tác đào to ngh phi gn nhu cu ca các doanh nghip cũng như điu kin sn xut tng đa phương, nhm nâng cao thu nhp. Song, mt khác, cũng cn chú trng đu tư cho các vùng sâu, vùng xa, vùng đng bào dân tc thiu s, vùng căn c cách mng và kháng chiến cũ, nhm gim dn khong cách, trình đ phát trin gia các vùng min. Cn đy mnh hơn na công cuc xóa đói, gim nghèo, tp trung phn ln nhng vùng nghèo, xã nghèo, nht là xã đc bit khó khăn.

Nhng vn đ này nếu không được gii quyết tha đáng và kiên quyết, thì khó có th phát trin bn vng. Thế nên, cùng vi nhng đu tư v ngun lc cho an sinh xã hi, chú trng kết hp n lc ca Nhà nước vi xã hi và người dân, cn phi n lc huy đng các ngun lc ca các t chc quc tế đ có thêm nhiu điu kin thc hin an sinh xã hi. Cn phi đc bit đy mnh ci cách th chế, chính sách cũng như cơ chế qun lý, nâng cao hiu lc qun lý ca Nhà nước trong lĩnh vc

Huế Thu (thực hiện)
ĐÁNH GIÁ
Hãy trở thành người đầu tiên đánh giá cho bài viết này!
  Ý kiến bình luận

BẠN CÓ THỂ QUAN TÂM

Không phải “gồng mình” thưởng tết

Những tín hiệu khả quan trong hoạt động kinh doanh từ đầu năm giúp nhiều doanh nghiệp (DN) dệt may không phải “gồng mình” để thưởng tết cho người lao động như từng xảy ra ở một số năm trước.

Không phải “gồng mình” thưởng tết
Hành trình trở thành thành phố trực thuộc Trung ương

Với sự quyết tâm của cả hệ thống chính trị và các tầng lớp nhân dân, Huế đã trở thành thành phố trực thuộc Trung ương sau hành trình gần 30 năm; trong đó 5 năm quyết liệt triển khai Nghị quyết (NQ) số 54 của Bộ Chính trị về xây dựng và phát triển tỉnh Thừa Thiên Huế đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 với đặc trưng văn hóa, di sản, sinh thái, cảnh quan, thân thiện với môi trường và thông minh.

Hành trình trở thành thành phố trực thuộc Trung ương
Chậm đóng bảo hiểm: Công khai danh sách các đơn vị kéo dài

11 tháng đầu năm 2024, toàn tỉnh có 1.654/4.107 doanh nghiệp (DN) chậm đóng các loại hình bảo hiểm với tổng số tiền chậm lên đến 335.141 triệu đồng, tăng 44.334 triệu đồng so với tháng trước. Xung quanh vấn đề này, phóng viên Báo Thừa Thiên Huế đã có cuộc trao đổi với Phó Giám đốc Bảo hiểm xã hội (BHXH) tỉnh, bà Bùi Thị Thu Lý.

Chậm đóng bảo hiểm Công khai danh sách các đơn vị kéo dài
Return to top