Đại biểu Phạm như Hiệp phát biểu tại Quốc hội
Nên quy định trách nhiệm của Bộ Công an vào Luật
Về bố cục của dự thảo luật, đại biểu Phạm Như Hiệp đề nghị chuyển Điều 5 lên trước Điều 4; chuyển Điều 16, Điều 17 xuống sau Điều 28 của dự thảo để phù hợp quy định của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
Theo đó, việc sắp xếp các quy định về cùng một vấn đề trong phần, chương, mục, tiểu mục phải bảo đảm nguyên tắc quy định chung được trình bày trước quy định cụ thể.
Đại biểu cũng đề nghị cơ quan soạn thảo nên nghiên cứu chuyển các quy định tại khoản 2, điều 21 của dự thảo liên quan đến khiếu nại, khởi kiện đối với các kiến nghị của cơ quan kiểm toán nhà nước và quyết định xử lý về thuế của cơ quan quản lý thuế vào quy định tại chương XVI của dự thảo để đảm bảo sự thống nhất, tránh quy định rải rác trong toàn văn bản. Đồng thời, cơ quan soạn thảo nên nghiên cứu điều chỉnh khoản 1 và 2 Điều 148 cho phù hợp tránh quy định lặp đi, lặp lại liên quan đến quyền của người nộp thuế trong việc khiếu nại, tố cáo quy định tại khoản 10 và 12 của điều 16 dự thảo luật này.
Về nhiệm vụ, quyền hạn của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan khác thuộc Chính phủ trong việc quản lý thuế (Điều 15), đại biểu đề nghị bổ sung quy định trách nhiệm của Bộ Công an trong việc phối hợp với các cơ quan chức năng để thu hồi các khoản nợ đọng thuế lớn đối với những trường hợp chây ỳ, bỏ trốn… Vì thực tế có nhiều trường hợp các đối tượng nợ thuế sẽ tìm cách bỏ trốn nhưng cơ quan quản lý thuế rất khó để xác minh, tìm ra các đối tượng này, do đó việc cơ quan công an phối hợp với cơ quan thuế để xác minh, truy tìm đối tượng cũng như kịp thời ngăn chặn việc xuất cảnh ra khỏi lãnh thổ Việt Nam là điều hết sức cần thiết.
Thành lập Hội đồng tư vấn thuế xã, phường là cần thiết
Toàn cảnh phiên họp Quốc hội
Về quyền hạn của người nộp thuế (Điều 16): Tại khoản 7 quy định người nộp thuế “Được nhận quyết định xử lý về thuế, biên bản kiểm tra về thuế, thanh tra thuế, được yêu cầu giải thích nội dung quyết định xử lý về thuế; được bảo lưu ý kiến trong biên bản kiểm tra thuế, thanh tra thuế; được nhận văn bản kết luận kiểm tra thuế, thanh tra thuế, quyết định xử lý về thuế sau thanh tra, kiểm tra của cơ quan quản lý thuế.”
Việc quy định như trên là chưa đầy đủ bởi ngoài các quyết định về xử lý thuế, biên bản thanh tra, kiểm tra về thuế của cơ quan thuế còn có các kiến nghị của cơ quan Kiểm toán, các kết luận của Thanh tra nhà nước liên quan đến lĩnh vực thuế. Vì vậy, đề nghị cơ quan soạn thảo bổ sung thêm quy định quyền của người nộp thuế được nhận các văn bản của cơ quan Kiểm toán và Thanh tra nhà nước để phù hợp với quy định tại điểm b, khoản 2 điều 21 và điểm b khoản 2 điều 22 của dự thảo luật này.
Về Hội đồng tư vấn thuế (HĐTVT) xã, phường, thị trấn (Điều 28), ông Phạm Như Hiệp nhất trí với việc thành lập HĐTVT xã, phường. Tuy nhiên, thời gian qua hiệu quả của các HĐTVT xã phường chưa đạt theo kỳ vọng. Theo báo cáo giải trình của Bộ trưởng Bộ Tài chính tại phiên chất vấn tại kỳ họp thứ 4, Quốc hội khóa XIV, năm 2016 toàn ngành thuế đã thực hiện kiểm tra với trên 33.633 cơ sở kinh doanh, kết quả là số thuế tăng thêm sau khi kiểm tra là hơn 4.891 tỉ đồng với hơn 73% hộ phải điều chỉnh mức khoán thuế tăng lên; 10 tháng đầu năm 2017 đã kiểm tra hơn 45.536 cơ sở kinh doanh, qua kiểm tra thì 74,91% số hộ kinh doanh phải điều chỉnh doanh thu khoán từ 50% trở lên.
Như vậy, mặc dù Luật Quản lý thuế 2006, sửa đổi bổ sung năm 2012, 2014, 2016 và Thông tư 92/2015/TT-BTC của Bộ Tài chính quy định khá đầy đủ chức năng, nhiệm vụ của HĐTVT xã, phường và quy định phải công khai danh sách cá nhân sử dụng hóa đơn của cơ quan thuế để quản lý việc sử dụng hóa đơn của hộ kinh doanh và công khai thông tin cá nhân kinh doanh nộp thuế theo phương pháp khoán để lấy ý kiến rộng rãi người dân và hộ kinh doanh tại các địa điểm là UBND xã, phường, thị trấn, cơ quan thuế; đồng thời gửi bảng công khai thông tin của hộ kinh doanh cùng với thông tin của 200 hộ kinh doanh có cùng địa bàn hoặc cùng ngành nghề kinh doanh đến từng hộ kinh doanh đối với cả 2 lần niêm yết… nhưng việc thực thi các quy định này chưa chưa nghiêm, chưa đầy đủ, dẫn đến việc thất thu thuế rất lớn nhất là thuế khoán.
Do đó, đề nghị cơ quan soạn thảo nên có những giải pháp căn cơ, cụ thể hơn để hạn chế tình trạng thất thu thuế, nhất là thuế khoán. Nên chăng cần có những quy định chi tiết hơn, chế độ chính sách đãi ngộ hơn để nâng trách nhiệm của cán bộ quản lý thuế cũng như người đứng đầu Hội đồng tư vấn thuế xã, phường, thị trấn trong việc áp dụng các thuế khoán với các hộ kinh doanh; đồng thời có chế tài mạnh hơn nếu để xảy ra vi phạm.
Về miễn thuế, giảm thuế (Điều 79), theo đại biểu, việc quy định là không phù hợp tình hình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong từng thời kỳ. Do đó, nên quy định rõ định mức tiền cụ thể trong Luật (50.000 đồng) sẽ không có tính khả thi và thiếu tính linh hoạt. Vì vậy đối với vấn đề này nên giao cho Chính phủ quy định sẽ phù hợp hơn.
Thái Bình (ghi)