ClockThứ Bảy, 09/10/2010 05:22

Huế - điểm giữa đất nước

TTH - Truyền thuyết ghi việc trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, khuyên Nguyễn Hoàng “Hoành Sơn nhất đái, vạn đại dung thân”, tức là qua được đèo Ngang thì yên ổn lâu đời được.

Đất kinh sư

Ai mà ngờ cuộc trốn chạy năm 1588 ấy mở ra một chương kỳ vĩ cho lịch sử Đại Việt. Dừng chân đầu tiên ở Ái Tử, vùng đất nghèo kiệt, 9 chúa Nguyễn lập 8 thủ phủ, tiến mãi về Nam, vừa chạy Tây Sơn, cự lại quân Mạc vừa chinh phục đồng bằng sông Cửu Long. Quá trình “mở cõi” này không phải chỉ “mang gươm” như câu thơ Huỳnh Văn Nghệ, mà có cả gả bán, ái ân, hoà trộn văn hoá, tín ngưỡng… Lưu dân đi theo chúa Nguyễn, đa phần từ Thanh - Nghệ, đều gan dạ, rắn rỏi. Vậy mà cũng có lúc ớn lạnh: đến đây đất nước lạ lùng / con chim kêu cũng sợ, con cá vẫy vùng cũng kinh.
 
Với sự giúp đỡ của thế lực bên ngoài, Nguyễn Phúc Ánh đánh thắng Tây Sơn, lên ngôi năm 1802, thống nhất đất nước, mở đầu triều đại sẽ chấm dứt ở Nguyễn Vĩnh Thuỵ, 1945. Hẳn là từ khi Quang Toản suy yếu, có cơ lấy lại “đất các chúa Nguyễn”, vị vua khai triều tương lai đã đau đầu về việc thiết lập kinh đô ở đâu. Thăng Long đất đẹp nhưng dân tình, sĩ phu đói khổ, đầy bất mãn, tâm tưởng vọng Lê còn tràn ứ. Vùng Thuận Quảng vốn là bản bộ, nằm ở vị trí trung độ, cân phân đất nước, mấy trăm năm đã là tiền đề để phân tranh với Đàng Ngoài. “Miền núi miền biển đều hợp về, đứng giữa miền Nam, miền Bắc, đất đai cao ráo, non sông phẳng lặng…, sông lớn giăng phía trước, núi cao giữ phía sau, rồng cuốn hổ ngồi, hình thế vững chãi” (Đại Nam nhất thống chí). Đời chúa 8 lần di dời thủ phủ, thì 2 lần làng Phú Xuân được chọn. Vả, mồ mả 9 chúa đều để ở Thuận Hoá, không đóng đô ở Kẻ Huế (chữ Alexandre de Rhode dùng năm 1653) thì ở đâu!
 
Kinh sư ra đời, dựa vào hệ thống sông Hương, Kim Long, Bạch Yến. Theo cố GS Trần Quốc Vượng, việc ấy không nằm ngoài quy luật định đô có sông trước sông sau của người Việt, như Hoa Lư với hệ sông Đáy, Luy Lâu với hệ sông Dâu, Thăng Long với hệ sông Nhị, Cổ Loa với hệ sông Hoàng Giang, Gia Định (một thủ phủ) với hệ sông Sài Gòn. Theo thuật phong thuỷ nghiêm ngặt, toà thành lên dần dần trông hướng Đông Nam, lấy núi Ngự Bình làm tiền án, sông Hương làm minh đường, bên tả có cồn Hến làm rồng chầu, hữu thì cồn Dã Viên làm hổ phục. Muốn cân bằng khí, mồ vua mả chúa (âm) để cả bên Tây, đối với phần dương là kinh thành, chợ búa bên Đông. Đem so với khoa học ngày nay, việc chọn ấy có cơ sở. Hướng thành hợp câu “lấy vợ đàn bà làm nhà hướng Nam”. Khá cao so với xung quanh, Phú Xuân thoát nước dễ, đất chịu được tải, mực nước ngầm ổn định, xung quanh là hệ sinh thái và tập dân cư đa dạng, có đầm phá, rừng, biển, trung du để cấp nguồn sản vật phong phú. Và để thủ hiểm thì Huế khá vững vàng, với Trường Sơn phía Tây, sông Gianh, Hoành Sơn phía Bắc, đèo Hải Vân, sông Thu Bồn phía Nam.
 
Định đô ở nơi thủ hiểm, nhà Nguyễn từ bỏ tư duy mở, bang giao rộng, tỏ mặt ra bên ngoài của Lý Công Uẩn; liệu có phải là một bước lùi?
 
Đô mới đã định, lại “phát sinh” những vấn đề. Thuận Hoá mênh mông đồng cát, ngập lụt liên miên…, không thể là một trung tâm kinh tế. Cung cấp cho triều đình - bộ máy hành chính trung ương là lúa gạo Quảng Nam, thậm chí Gia Định, cam Canh, bưởi Diễn, giấy Bưởi… từ Bắc. Vai trò cựu đô phải hạ xuống. Theo TS Phan Thanh Hải (TT Bảo tồn di tích cố đô Huế), Gia Long đổi chữ “Long” (rồng) trong “Thăng Long” thành “Long trọng”, rồi Minh Mạng đặt lại tên “Hà Nội” – thành thị trong sông, cái ý nghĩa khá vô hại, bắt hạ thấp mặt thành xuống 70 phân, quy mô phủ đệ bé đi, ngang cấp tỉnh thôi.
                                                             *
Ngắm nghía thiên địa nhân xong, ba năm sau khi lên ngôi, năm 1805, vua Gia Long cho khởi công xây thành luỹ. Sử chép Nguyễn Văn Yến và Đỗ Phúc Trạch được chọn nghiên cứu và lập thiết kế, nhưng căn cứ vào kiến trúc Vauban kiểu châu Âu, có lẽ người Pháp có vai trò ở đây. 27 năm lúc làm lúc nghỉ, có khi làm xong phải trùng tu ngay, đến năm thứ 13 triều Minh Mạng thì xong. Trong mắt thương gia Pháp Auguste Borel, “bài thơ kiến trúc kinh thành”, “kỉ  vật tài năng, trí tuệ của người lao động” ra đời khá man rợ: “… 80. 000 người bận rộn xây cất bức tường thành đồ sộ bằng gạch…
 

Toàn cảnh Kinh thành Huế.
Ảnh: maivang.nld.vn

Thành Huế có ba vòng, xây kiên cố. Ngoài cùng là Phòng thành hình vuông mỗi chiều gần 2.500 mét, 10 cửa, bên ngoài là hệ thống hào, có vai trò quân sự trọng yếu nhất. Bên trong là Hoàng thành, cũng vuông vức mỗi chiều khoảng 600 mét, 4 cửa, phía sau là Ngọ Môn, điện Thái Hoà, vườn Cơ Hạ, Thái Miếu, Thế Miếu… Phần ruột là Tử cấm thành, chỗ vua và hoàng hậu ở, có điện Cần Chánh, Càn Thành, Kiến Trung, cung Khôn Thái… Thành còn hồ Tịnh Tâm thả sen, lầu Tàng Thơ, thật ra là thư viện triều đình, và khu Lục bộ để các quan làm việc. Đến Huế năm 1819, thuyền trưởng Pháp Lerey ghi lại: “Đây nhất định là pháo đài đẹp nhất và đều đặn nhất ở Ấn Độ Chi Na, kể cả pháo đài Williams ở Calcuta và Saint George ở Madrats do người Anh làm”. Trong khi đó, sách vở ghi về cựu đô thời kỳ này lại cho biết “Thăng Long toàn tranh tre kể cả nhà quan, cháy một cái đi vèo tất cả”.
 
Với những dạng thức cấu trúc kể trên, khi xét công nhận di sản văn hoá thế giới, Huế được UNESCO đánh giá là “điển hình về đô thị hoá và kiến trúc của một kinh đô phòng thủ, thể hiện quyền lực của vương quốc phong kiến cổ của Việt Nam ở thời kỳ huy hoàng vào thế kỷ XIX”.
 
Huế ít di tích hơn Hà Nội nhưng tạo ấn tượng cổ kính hơn nhiều vì chúng tập trung thành quần thể, không bị xâm lấn, ít hư hại. Thành phố hiện nay rộng 71 km2, trong khoảng 36 vạn dân có chừng 15 vạn người sống trong vùng lăng tẩm, khu vực 1 và 2 của kinh thành… Chả thể “dọn” họ đi, nên vấn đề “chung sống với di tích” vô cùng trầm trọng, chả như ngoài Thủ đô, coi như đã “hoá bùn” cả.
                                                                        
Hướng đi nào?
 
Bước sang thời kỳ đổi mới, nhất là giai đoạn kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, bộ mặt các đô thị lớn trong nước thay đổi hẳn. Từ Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Hải Phòng cho chí Cần Thơ, Vinh… đều phát triển lên tầm cao mới, những kiến trúc chọc trời, các khu kinh tế đặc trưng. Có những câu hỏi lớn xuất hiện với đất đế đô cũ: hiện đại hoá, công nghiệp hoá có nhất thiết phải đập cái cũ đi để làm mới? Có nên “hoà” vào “phong trào” xây cảng nước sâu, làm nhà máy đường như các tỉnh miền Trung để nâng thu nhập quốc dân? Và về tính cách dân cư, người Huế có nên ăn nhanh đi hối hả cho ra người hiện đại, hay cứ giữ lấy “khu vườn con con” trong mình?...
 
Rất nhiều cuộc hoạch định, ý tưởng, trù tính được bàn thảo. Không ít dự án hoành tráng mang về: làm nhà lớn bên bờ sông Hương, trên cồn Dã Viên, khách sạn ở đồi Vọng Cảnh… Rất may là tất cả không lên được, khi lãnh đạo thành phố và tỉnh Thừa Thiên Huế trả lời được cái điều “Ta là ai, ta nên tồn tại thế nào?”.
 

Đêm sông Hương
 
Du lịch – ngành công nghiệp không khói - được củng cố, đẩy lên hàng đầu, đi kèm là những nhà vườn, làng nghề, dịch vụ, kì cuộc liên hoan, lễ hội. Huế chả có cái mát mẻ của Đà Lạt. Với khí hậu khắc nghiệt, nắng nóng kéo dài, mưa dầm, có cái gì để lôi du khách từ khắp thế giới bỏ tiền về đây, nếu không phải hệ thống đền đài, lăng tẩm, chùa chiền hoà quyện trong thiên nhiên. Đập bỏ chúng đi xây cái mới, Huế vừa mất đặc trưng vừa không thể bằng Hà Nội, Sài Gòn. Nên chi giữ lại, tu bổ, khai thác. Nhà cửa xây cất không được cao quá đường hợp với mặt nước sông Hương góc 30 độ. Nhờ vào sự tỉnh táo trên, từ năm 2005 đến 2010, tốc độ tăng trưởng GDP bình quân đạt 14,2%, trong đó tỷ trọng du lịch, dịch vụ, thương mại chiếm tới 71%. Công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp phát triển theo hướng sạch, giữ lấy gương mặt, môi trường thanh bình cho cả vùng. Cũng trong 5 năm qua, cơ cấu kinh tế theo hướng năng động, tích cực đã hình thành, số công ty TNHH tăng từ 46 lên 937, số doanh nghiệp tư nhân từ 509 lên 1.312. Doanh thu du lịch ngày một tăng, chứng tỏ vị trí mũi nhọn của mình, chẳng hạn dự kiến năm 2010 đạt tới 830 tỷ đồng.
 
“Ta là ai, ta nên tồn tại thế nào?”. Đại hội Đảng bộ thành phố mới đây đã dứt khoát với câu trả lời tìm ra. Hà Nội đang mất đặc trưng, phải “đi tìm mình”, thì Huế càng phải là Huế. Cạnh thế mạnh du lịch, thành phố quyết tâm giữ lấy truyền thống xưa nay: là một trung tâm giáo dục đào tạo, văn hoá khoa học. Nhưng cũng không đơn giản, khi Đà Nẵng láng giềng có chính sách thu hút người tài
 
Huế với Thăng Long – Hà Nội
 
Thăng Long kể từ năm 1010, Huế từ 1802, Hà Nội từ 1945, là Thủ đô của nước Việt Nam, nghĩa là đô thị trung tâm. Dễ hiểu, là quan hệ của các vùng đất đó rất khăng khít, san sẻ, đóng góp, chuyên chở cho nhau từ nhân tài, vật lực đến nền nếp phong tục. “Chảy xuôi”, thì phải kể đến Huyền Trân đổi đất, Nguyễn Hoàng mở cõi, mang theo hồn cốt Thăng Long. Nguyễn Văn Siêu, Nguyễn Trọng Hợp (Thanh Trì), Cao Bá Quát (Gia Lâm) đều đã được triều Nguyễn đánh giá rất cao, nhất là về thi tài (Câu Văn như Siêu Quát vô Tiền Hán truyền là của Tự Đức). “Chảy ngược”, là Hịch Cần Vương của vua Hàm Nghi làm sôi lòng bao tấm lòng yêu nước đất Bắc. Nguyễn Tri Phương, vị võ tướng bảo vệ Hà Nội, hy sinh tại đây là người con của Huế.
 
Cùng với Sài Gòn, Huế và Hà Nội là các thành phố kết nghĩa. Chiến tranh chống Pháp, chống Mỹ, thống nhất đất nước…, và ngày nay, tiến lên công nghiệp hoá hiện đại hoá, giai đoạn nào mối liên hệ ấy cũng bền chặt, trở thành một truyền thống tốt đẹp.
 
Hoàng Định
 
 
                                                            
ĐÁNH GIÁ
Hãy trở thành người đầu tiên đánh giá cho bài viết này!
  Ý kiến bình luận
Return to top