ClockChủ Nhật, 12/03/2017 09:29

Nhận diện thách thức của ngành càphê Việt Nam trong thời gian tới

Với diện tích càphê khoảng 700.000ha, sản lượng càphê nhân 1,6-1,7 triệu tấn/năm, Việt Nam đã và đang là nước sản xuất, xuất khẩu càphê thứ hai trên thế giới (chỉ sau Brazil).

Thu hoạch càphê ở tỉnh Đắk Lắk. Ảnh: Phạm Cường/TTXVN

Sản lượng và kim ngạch xuất khẩu càphê ngày càng tăng trong những năm gần đây đã đóng góp tích cực cho kinh tế xã hội của cả vùng Tây Nguyên.

Việc đăng ký chỉ dẫn địa lý càphê Buôn Mê Thuột - thủ phủ của vùng cà phê Tây Nguyên, kết hợp với công tác quảng bá thường xuyên, nhất là lễ hội càphê Buôn Mê Thuột được tổ chức hai năm một lần đã nâng tầm giá trị thương hiệu của càphê.

Tuy nhiên, càphê Việt Nam đang đứng trước nhiều thách thức mà trước hết là sự già cỗi của hàng trăm nghìn hécta càphê mỗi năm. Diện tích này cần phải thay thế bằng trồng mới hoặc chặt bỏ.

Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, hiện nay, diện tích càphê già cỗi cần tái canh và chuyển đổi trong 5-10 năm tới khoảng 140.000-160.000ha (chiếm trên 20% diện tích càphê của toàn vùng). Trong đó diện tích càphê trên 20 năm tuổi hiện có trên 86.000ha, chưa kể khoảng 40.000ha càphê dưới 20 tuổi nhưng đã có biểu hiện già cỗi cho năng suất và chất lượng thấp.

Nếu không kịp thời tái canh thì trong một vài năm tới sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới năng suất và chất lượng của càphê Việt Nam.

Mặc dù chương trình tái canh càphê đã được triển khai từ nhiều năm nay, với sự vào cuộc tích cực của ngành ngân hàng với vai trò cung cấp nguồn tín dụng và các cơ quan quản lý, cơ quan nghiên cứu ngành nông nghiệp trong việc tìm ra mô hình và phương pháp tái canh phù hợp với từng vùng miền, tuy nhiên, tốc độ tái canh cây càphê trong thời gian qua diễn ra rất chậm.

Bên cạnh đó, việc quy hoạch phát triển càphê không tốt nên dẫn đến phá vỡ quy hoạch liên tục.

Đã có thời kỳ cây càphê phát triển với tốc độ chóng mặt và hiện diện tích càphê ở nhiều tỉnh Tây Nguyên đã vượt quá quy hoạch.

Trong khi càphê là cây trồng cần nhiều nước tưới, phương pháp tưới truyền thống hiện vẫn là phương pháp chính được sử dụng trong các vườn càphê, đặc biệt là càphê nông hộ đã gây sụt giảm nguồn nước ngầm nghiêm trọng.

Ở nhiều địa phương, việc khoan quá nhiều giếng khoan phục vụ cây càphê đã làm thủng tầng nước ngầm, ô nhiễm đất và nguồn nước gây lãng phí, không hiệu quả. Đặc biệt, trong những năm qua, biến đổi khí hậu, sự nóng lên toàn cầu, đã tạo nên các hiện tượng thời tiết cực đoan ảnh hưởng trực tiếp đến hệ sinh thái, tài nguyên môi trường và cuộc sống của con người.

Tại Tây Nguyên, ngành nông nghiệp nói chung và ngành càphê nói riêng chịu tác động mạnh mẽ nhất của biến đổi khí hậu, như đợt hạn khốc liệt gần đây đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến sản lượng càphê niên vụ 2015/2016 và các niên vụ tới.

Những khó khăn trong việc canh tác càphê phụ thuộc nhiều vào các yếu tố chủ quan thì khâu thu hoạch và chế biến càphê mặc dù phần lớn xuất phát từ các yếu tố chủ quan, song để giải quyết cũng không phải là vấn đề đơn giản.

Thực tế, việc thu hoạch càphê theo phương thức tuốt cành với khoảng 50% quả xanh ở các tỉnh Tây Nguyên là phương thức tồn tại như một tập quán của đồng bào nơi đây. Đây cũng được nhận diện là một trong những nguyên nhân làm giảm chất lượng càphê Việt Nam.

Để thay đổi tập quán này, các nhà khoa học, cơ quan khuyến nông và các địa phương đã có rất nỗ lực. Các công ty thu mua, chế biến càphê cũng tích cực vào cuộc với nhiều quy định tiêu chuẩn về chất lượng càphê thu mua, song đến nay vẫn còn không ít vùng đồng bào vẫn duy trì tập quán thu hoạch này.

Bên cạnh đó, nhiều nơi không có sân phơi bêtông, ximăng, gạch; không có chế biến ướt, càphê quả thu hoạch về phơi trên mọi loại sân như đất, đường sá, vải bạt… làm giảm chất lượng của hạt càphê.

Tiêu chuẩn được khuyến cáo cứ 100ha càphê phải có 1ha sân phơi đảm bảo tiêu chuẩn vẫn còn là mục tiêu “xa vời,” kể cả ở những địa phương có tiềm năng và nguồn lực đầu tư khá lớn cho cây càphê như Đăk Lăk, Lâm Đồng.

Khâu canh tác và thu hoạch, chế biến càphê cũng tồn tại nhiều hạn chế. Việc chế biến càphê nhân xuất khẩu thực hiện tốt nhưng chế biến sâu, tạo ra càphê bột, càphê hòa tan, các thực phẩm từ càphê như bánh, kẹo, rượu, nước giải khát còn bỏ ngỏ. Điều này đã làm cho giá trị và kim ngạch xuất khẩu càphê không cao, chỉ mức 3,2-3,4 tỷ USD/năm trong khi tiềm năng nâng cao giá trị xuất khẩu còn cho ngành hàng càphê còn rất lớn.

Những năm gần đây, công nghệ chế biến ướt đã được một số doanh nghiệp tại Đắk Lắk, Lâm Đồng, Kon Tum, Gia Lai áp dụng, đã và đang góp phần nâng cao chất lượng càphê hạt Việt Nam. Tuy nhiên, khâu chế biến sâu vẫn chưa được các doanh nghiệp trong nước chú trọng, khiến sản lượng và thị phần càphê chế biến sâu và các thực phẩm từ càphê phần lớn thuộc các doanh nghiệp nước ngoài.

Cũng giống như nhiều mặt hàng nông sản khác của Việt Nam, mặc dù sản lượng xuất khẩu nhất nhì thế giới nhưng càphê Việt Nam vẫn trong tình trạng “áo gấm đi đêm” khi chủ yếu là xuất khẩu dạng thô, chưa có thương hiệu.

Những năm gần đây, vấn đề xây dựng, quảng bá thương hiệu càphê Việt Nam thành sản phẩm quốc gia trên toàn cầu, xây dựng chỉ dẫn địa lý càphê Việt Nam và quản lý phát triển chỉ dẫn này đã được nhiều Bộ, ngành và địa phương vào cuộc. Tuy nhiên, có ý kiến cho rằng, song song với việc thực hiện dự án xây dựng càphê Việt Nam là sản phẩm quốc gia cần khuyến khích phát triển các thương hiệu tư nhân về càphê để đưa ra thị trường thế giới đồng thời kêu gọi đầu tư nước ngoài vào ngành càphê Việt Nam có ràng buộc mang thương hiệu của Việt Nam hoặc chỉ dẫn địa lý của Việt Nam. Bên cạnh đó, khuyến cáo mở rộng thị trường nội địa, song song với phát triển tiêu thụ trong nước là kiểm soát giá thành chế biến sản phẩm càphê tiêu thụ trong nước để người tiêu dùng được dùng càphê sạch, nguyên chất, hương vị Việt Nam và bằng công nghệ Việt Nam

Trong khuôn khổ lễ hội càphê Buôn Mê Thuột lần thứ sáu và Liên hoan Văn hóa Cồng chiêng Tây Nguyên năm 2017 diễn ra từ ngày 8-13/3 tại Đắk Lắk, ngày 12/3, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn sẽ tổ chức hội thảo "Phát triển ngành hàng càphê Việt Nam thích ứng với biến đổi khí hậu và hội nhập quốc tế."

Mục đích của hội thảo nhằm nâng cao nhận thức của các cơ sở sản xuất kinh doanh, chế biến càphê, các nhà lãnh đạo quản lý về thực trạng sản xuất càphê trong điều kiện biến đổi khí hậu và duy trì phát triển sản xuất càphê bền vững; làm rõ vai trò quan trọng của giá trị gia tăng càphê trong chuỗi sản xuất và chế biến, những nhân tố ảnh hưởng đến giá trị gia tăng, năng lực cạnh tranh của càphê; đề xuất các nhóm giải pháp nhằm thúc đẩy ngành hàng càphê phát triển bền vững.

Hội thảo cũng là dịp để ngành càphê, doanh nghiệp và người làm càphê Việt Nam có cơ hội nhìn nhận lại vị trí ngành càphê Việt Nam so với thế giới và từ đó có bước điều chỉnh phù hợp theo nhu cầu thị trường quốc tế và xu hướng phát triển chung.

Theo Vietnam+

ĐÁNH GIÁ
Hãy trở thành người đầu tiên đánh giá cho bài viết này!
  Ý kiến bình luận

BẠN CÓ THỂ QUAN TÂM

Nhận diện nguy cơ tiềm ẩn tai nạn lao động

Nhiều vụ tai nạn lao động nghiêm trọng xảy ra gần đây ở một số nhà máy sản xuất ngoại tỉnh cho thấy, chỉ cần một sự bất cẩn nhỏ, chủ quan và thiếu trang bị kiến thức, phương tiện, quy trình phòng bị về an toàn vệ sinh lao động (ATVSLĐ) là tính mạng người lao động rất dễ bị đe dọa.

Nhận diện nguy cơ tiềm ẩn tai nạn lao động
Nét nhân văn quân sự đặc sắc của dân tộc Việt Nam

Trong các cuộc chiến tranh giữ nước suốt chiều dài lịch sử dân tộc, cùng với sử dụng sức mạnh quân sự để đánh bại kẻ thù xâm lược, dân tộc Việt Nam đã phát huy cao độ yếu tố chính nghĩa và nhân văn của cuộc chiến tranh đang tiến hành để đánh bại kẻ xâm lược phi nghĩa. Tiếp nối truyền thống đó, trong và sau Chiến dịch Điện Biên Phủ, Đảng, Chính phủ và Quân đội nhân dân Việt Nam luôn nhất quán chủ trương đối xử khoan hồng, nhân đạo đối với tù, hàng binh.

Nét nhân văn quân sự đặc sắc của dân tộc Việt Nam
Hải quân Nhân dân Việt Nam: 69 năm hành trình giữ biển

Ngày 7/5/1955, Bộ Quốc phòng ra Nghị định thành lập Cục Phòng thủ bờ bể, là “cơ quan giúp Bộ Tổng tư lệnh chỉ đạo các lực lượng phòng thủ bờ bể, tổ chức đào tạo cán bộ, nhân viên thủy thủ; sản xuất, sửa chữa dụng cụ, phương tiện về thủy quân; xây dựng các thủy đội để bàn giao cho các khu và liên khu làm nhiệm vụ quản lý, bảo vệ chủ quyền, an ninh trên các vùng sông, biển”; trở thành mốc lịch sử đánh dấu sự ra đời của Hải quân Nhân dân Việt Nam.

Hải quân Nhân dân Việt Nam 69 năm hành trình giữ biển
Return to top