Thế giới

8 năm làm Thủ tướng Nhật Bản của ông Shinzo Abe: Sóng gió và vinh quang

ClockChủ Nhật, 30/08/2020 08:11
Ông Shinzo Abe hôm 24/8 đã trở thành Thủ tướng tại vị lâu nhất của Nhật Bản. Khi Shinzo Abe trở lại nắm quyền vào tháng 12/2012, nhiều người e ngại ông sẽ hướng nước Nhật theo nghĩa dân tộc bảo thủ mà họ nhận thấy qua các bài phát biểu, ngôn từ và hoạt động của ông.

Thủ tướng Nhật Bản Abe Shinzo sẽ điện đàm lần chót với Tổng thống MỹSức khỏe của Thủ tướng Nhật Bản ổn định, không như đồn đoánTokyo sẽ tuyên bố tình trạng khẩn cấp do Covid-19Doanh nghiệp Nhật Bản gặp khó khăn khi cho phép lao động làm việc tại nhàThủ tướng Abe: Nhật Bản sẽ cố gắng ký kết Hiệp ước hòa bình với Nga

Họ đưa ra các mối quan ngại rằng ông Abe sẽ làm xấu đi mối quan hệ với các nước láng giềng trong khu vực, rằng ông sẽ thay đổi Hiến pháp hòa bình, hay ông sẽ kêu gọi xem xét lại lịch sử và không quan tâm tới quyền lợi của nữ giới.

Nhìn lại tổng thể, nhiệm kỳ của Thủ tướng Abe khác rất nhiều với suy nghĩ nói trên của các nhà phân quyền trong nước và quốc tế. Cũng như tất cả các nhà lãnh đạo chính trị khác, thời gian cầm quyền của ông có thành công, có thất bại, và có những cơ hội bị bỏ lỡ. Nhưng sẽ khó vị kế nhiệm nào có thể thành công trong việc đưa nước Nhật ảnh hưởng sâu rộng trên trường quốc tế như dưới thời Shinzo Abe.

Ông Shinzo Abe hôm 28/8 đã tuyên bố từ chức vì lý do sức khỏe. (Ảnh: Getty Images)

Chiến lược Abenomics và Womenomics

Noi theo các nhà lãnh đạo của cuộc Duy tân Minh Trị, trong quá trình hiện đại hóa của Nhật Bản, ông Abe đã khởi xướng Abenomics, một chiến lược kinh tế kết hợp giữa nới lỏng định lượng và kích thích tài chính thông qua chương trình chi tiêu của chính phủ và cải cách qui định.

Lúc đầu các chính sách này khá khả quan, cho đến khi hai đợt tăng thuế tiêu dùng được coi là không phù hợp được thông qua vào năm 2014 và 2019. Ngân hàng Thế giới và các tổ chức khác đều cho rằng Abenomics đã mất tác dụng vì không đủ vững vàng trong cải cách cơ cấu.

Sóng gió kinh tế càng lớn hơn do chính sách bảo hộ của Tổng thống Mỹ Donald Trump và cuộc chiến thương mại Mỹ - Trung Quốc tác động tiêu cực đến các doanh nghiệp Nhật Bản. Tiếp đó là đợt khủng hoảng kinh tế bắt nguồn từ đại dịch COVID-19, khiến tình hình kinh tế Nhật Bản hiện nay hầu như không có tiến bộ so với cuối năm 2012.

Cùng với Abenomics, ông Abe cũng khởi xướng chiến dịch Womenomics, hướng tới “Nhật Bản, nơi phụ nữ có thể tỏa sáng”.

Theo báo cáo của Goldman Sachs năm 2019: “Nhật Bản hiện có tỷ lệ lao động nữ cao kỷ lục (71%), vượt qua Mỹ và Châu Âu, phúc lợi nghỉ phép gia đình hào phóng, tính minh bạch về giới tính và cải cách lao động được cải thiện”. Một báo cáo tương tự nhấn mạnh “tình trạng khan hiếm lãnh đạo nữ, chênh lệch lương theo giới, hợp đồng lao động không linh hoạt, ưu đãi thuế, chế độ chăm sóc không đầy đủ và thành kiến” không hoàn toàn được khắc phục trong các chính sách của ông Abe.

Thực tế, chỉ một số thành viên Nội các là nữ và chỉ 10% số ghế ở Hạ viện do các nhà lập pháp nữ chiếm giữ, cho thấy quyền lợi của phụ nữ chưa phải vấn đề ưu tiên của các nhà lãnh đạo Nhật Bản. Do đó, womenomics đã không tạo được hiệu ứng mong muốn để giúp cải thiện tình trạng bất bình đẳng giới ở Nhật Bản.

Để cải thiện tình trạng trên, Nhật Bản cần học hỏi thêm từ các công ty quốc tế có trụ sở tại nước này đã thành công trong việc để phụ nữ đảm nhiệm các vị trí lãnh đạo và quản lý, đưa ra các hợp đồng lao động linh hoạt hơn và đối phó với những trở ngại đã nêu trong báo cáo của Goldman Sachs.

Đối sách trong đại dịch COVID-19

Tiếp đó, trong đại dịch COVID-19, chỉ đạo của ông Abe cũng gây ra nhiều ý kiến trái chiều. Cách ông xử lý việc cách ly tàu Diamond Princess đầu tháng 2 đã bị chỉ trích nặng nề dù Mỹ, Úc và nhiều nước khác cũng áp dụng biện pháp tương tự với tàu du lịch của họ.

Việc Thủ tướng Nhật Bản tuyên bố tình trạng khẩn cấp vào tháng 4 cũng bị cho là chậm trễ dù sau đó tình trạng lây nhiễm đã tạm thời giảm. Tới nay, Nhật Bản ghi nhận hơn 65.000 ca nhiễm COVID-19, trong đó có 1.200 người chết, số ca nhiễm mới hàng ngày đã giảm từ mức đỉnh hôm 3/8 là 1.998 xuống còn 701 vào hôm 26/8 (236 tại Tokyo). Diễn biến của đại dịch trong năm tới có thể tác động tích cực hoặc tiêu cực đến “di sản” trong nước của Thủ tướng Abe nhiều hơn là các chủ trương đặc trưng khác của ông.

Những khó khăn và thành tựu trên mặt trận quốc tế

Khi nhậm chức vào cuối năm 2012, ông Abe cũng kế thừa mối quan hệ Trung - Nhật đã tổn hại nghiêm trọng sau khi chính phủ Đảng Dân chủ Nhật Bản khẳng định chủ quyền với quần đảo Senkaku. Ngạc nhiên thay, ông đã thành công xoa dịu mối quan hệ song phương (dù vẫn tồn tại tranh cãi). Đặc biệt là chuyến thăm cấp nhà nước của Chủ tịch Tập Cận Bình, dự kiến vào mùa xuân năm nay nhưng đã bị hoãn.
Ông Shinze Abe bắt tay Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình tại cuộc gặp bên lề APEC 2017 được tổ chức tại Đà Nẵng, Việt Nam. (Ảnh: Tân Hoa xã)

Những nỗ lực ngoại giao của ông Abe nhằm đưa đến thành quả là “văn kiện chính trị thứ 5”, một tài liệu nhằm khẳng định thái độ và bản chất mối quan hệ Nhật - Trung trong thập kỷ tới. Nhưng đại dịch COVID-19 làm gia tăng sự hoài nghi của công chúng Nhật Bản và các nhà hoạch định chính sách bảo thủ đối với Trung Quốc. Thêm vào đó, căng thẳng leo thang giữa Mỹ - Trung có thể cản trở việc lập văn kiện trên cũng như chuyến thăm cấp nhà nước của ông Tập.

Cùng với đó, mối quan hệ với Hàn Quốc cũng không được thuận lợi. Vào tháng 12/2015, ông Abe đạt được một thỏa thuận với chính phủ Hàn Quốc về quyền lợi của phụ nữ, tạo ra khả năng đặt nền tảng cho quan hệ song phương đi lên.

Nhưng tiến bộ ban đầu trong quan hệ Nhật - Hàn đã chững lại khi Tổng thống Moon Jae-in đắc cử vào năm 2017. Cùng với những thay đổi trong thỏa thuận về quyền lợi phụ nữ của ông Moon, sự đe dọa rút khỏi thỏa thuận chia sẻ thông tin tình báo GSOMIA và phán quyết của Tòa án tối cao Hàn Quốc yêu cầu các công ty Nhật Bản bồi thường cho các lao động thời chiến Hàn Quốc, quan hệ song phương trở nên tệ nhất kể từ khi Tokyo và Seoul bình thường hóa quan hệ vào năm 1965. Cách nhìn của các chính trị gia và công chúng hai nước với nhau cũng xấu đi ở mức kỷ lục.

Khác với các vấn đề an ninh giữa Trung Quốc và Nhật Bản vẫn còn cơ hội chuyển biến trong tương lai, mối quan hệ Nhật - Hàn bị chính trị ở cả hai nước hủy hoại, dù hai bên có chung chuẩn mực, thể chế chính trị và nhiều lợi ích trong khu vực.

Ông Abe có lẽ là một trong số ít chính trị gia Nhật Bản có thể thiết lập lại quan hệ song phương bằng những động thái hoặc biện pháp giải quyết một số vấn đề cốt lõi gây chia rẽ hai nước. Thúc đẩy trao đổi văn hóa, giáo dục và kinh doanh quy mô lớn là một trong những biện pháp đó, ông tạo điều kiện cho người dân 2 nước tìm hiểu về văn hóa, xã hội của nhau, nhằm xây dựng quan hệ tốt đẹp trong tương lai thay vì giữ những hiềm khích trong quá khứ.

Có thể khẳng định thách thức lớn nhất đối với ông Abe trong nhiệm kỳ là cân bằng mối quan hệ Nhật - Mỹ kể từ khi Donald Trump đắc cử. Tổng thống Trump đã rút khỏi Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương, áp thuế với thép và nhôm của Nhật Bản, khơi mào cuộc chiến thương mại với Trung Quốc và khuyến khích Nhật ký một thỏa thuận thương mại nhỏ vào tháng 9 năm ngoái. Những điều trên diễn ra trong bối cảnh Trump phủ nhận giá trị của các liên minh và yêu cầu Nhật Bản cùng những đối tác liên minh khác thay đổi các thỏa thuận chia sẻ gánh nặng của họ với Mỹ.

Thủ tướng Abe đã đáp lại những động thái của Mỹ ở nhiều mức độ. Trước hết, ông tìm cách cá nhân hóa mối quan hệ với lãnh đạo Mỹ trong khi hạn chế những bình luận chỉ trích ông Trump cùng chính quyền của Tổng thống Mỹ.

Tiếp đó, ông Abe củng cố cả chất lượng và số lượng các nhân viên ngoại giao của Nhật tại Washington thông qua các chuyến thăm ngày càng thường xuyên của các sĩ quan Lực lượng Phòng vệ, chính trị gia, học giả và các nhà nghiên cứu xe tăng cùng các nhà lãnh đạo doanh nghiệp. Biện pháp này đã củng cố quan hệ Nhật – Mỹ, giúp mối liên kết hai bên không dễ dàng rạn nứt bởi những dòng trạng thái tùy tiện hoặc tuyên bố sai lầm của ông Trump.

Cuối cùng, Thủ tướng Nhật Bản đầu tư rất nhiều vào chủ nghĩa đa phương và việc thúc đẩy trật tự trên cơ sở luật pháp. Sử dụng chiến lược Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương mở và tự do (FOIP), Hiệp định Toàn diện và Tiến bộ về Đối tác Xuyên Thái Bình Dương và hiệp định Đối tác kinh tế với Liên minh Châu Âu, Nhật Bản đã thu hút thêm nhiều thành viên cho FOIP, nhằm đảm bảo thị trường thương mại và xây dựng một cộng đồng hoạt động dựa trên quy tắc chung.

Quan hệ đối tác về Kết nối bền vững và Cơ sở hạ tầng chất lượng giữa Liên minh Châu Âu với Nhật Bản và Đối tác Cơ sở hạ tầng 3 bên Úc - Nhật – Mỹ là minh chứng cho phương pháp của ông Abe trong thắt chặt quan hệ với Mỹ, đồng thời tăng thêm đối tác cho Nhật Bản, thể hiện sự tự chủ trong chính sách đối ngoại.

Những dấu ấn sau 8 năm 

Tuy trong nước, các chủ trương cốt lõi ông đưa ra trước đây đã không đạt được mục tiêu do thiếu cải cách cơ cấu, hạn chế trong cải thiện quyền phụ nữ và áp lực do tác động bên ngoài, nhưng các cải cách trong quản trị doanh nghiệp, việc nới lỏng quy định về di cư và những cải cách khác với nền kinh tế trong nước đang tạo ra đà đi lên cho Nhật Bản.

Ở cấp độ quốc tế, ông có các cuộc đàm phán sắc sảo về địa chính trị, nhận được nhiều khen ngợi từ giới phê bình về quyền lực trong khu vực, ví dụ như như tổ chức Chỉ số Quyền lực Châu Á của Viện Lowy, vốn coi Nhật Bản là “nhà lãnh đạo của trật tự tự do ở Châu Á”.

Khảo sát về Trạng thái Đông Nam Á 2020 của Viện ISEAS-Yusof Ishak cũng khẳng định điều này, cho thấy Nhật Bản là quốc gia đáng tin cậy nhất trong khu vực. Đây là kết quả nhờ sự lãnh đạo của Shinzo Abe trong nhiệm kỳ thủ tướng của ông.

Bất cứ ai trở thành lãnh đạo tiếp theo của Nhật Bản cũng có nhiều điều để học hỏi từ sự lãnh đạo của ông Abe trước đó.

Theo VOV

ĐÁNH GIÁ
Hãy trở thành người đầu tiên đánh giá cho bài viết này!
  Ý kiến bình luận

BẠN CÓ THỂ QUAN TÂM

ATIA: Du khách Australia đến Nhật Bản, Việt Nam và Indonesia tăng mạnh

Dữ liệu mới nhất từ Hiệp hội Du lịch Australia (ATIA) cho thấy, người dân nước này đang tiếp tục đi du lịch với số lượng kỷ lục, trong đó Nhật Bản, Việt Nam và Indonesia là những điểm đến ghi nhận mức tăng trưởng hàng đầu. ATIA cho biết chỉ riêng trong tháng 10/2024, đã có 1,66 triệu người Australia khởi hành đến các điểm đến quốc tế, tăng 12,1% so với cùng kỳ năm ngoái.

ATIA Du khách Australia đến Nhật Bản, Việt Nam và Indonesia tăng mạnh
Return to top