Có ý thức xây dựng khả năng phục hồi sẽ là biện pháp tốt hơn cho khả năng cạnh tranh lâu dài của doanh nghiệp. Ảnh minh họa: Báo Công thương
Kể từ những năm 1980, khi toàn cầu hóa ngày càng sâu rộng, ngày càng có nhiều doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ (SME) ở ASEAN tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu. Những chính sách thương mại mở, hướng vào xuất khẩu của ASEAN và Đông Á đã góp phần vào sự ra đời của các chuỗi giá trị này, kéo theo tăng trưởng kinh tế cao.
Tuy nhiên, những chuỗi cung ứng phức tạp này vốn dễ bị tổn thương bởi những cú sốc và sự gián đoạn của môi trường bên ngoài. Được biết, tất cả các nước châu Á đều xếp hạng kém trong Chỉ số Rủi ro Thế giới năm 2020 về việc tăng cường khả năng chuẩn bị và thích ứng với những sự kiện khắc nghiệt.
Đại dịch COVID-19 đang đặt các chuỗi cung ứng của châu Á vào thử thách; các công ty cần đánh giá rủi ro đối với doanh nghiệp của họ và xây dựng kế hoạch về khả năng phục hồi. Kết hợp với tác động tài chính của suy thoái kinh tế toàn cầu, khả năng phục hồi của chuỗi cung ứng là rất quan trọng đối với sự tồn tại của các công ty riêng lẻ.
Một chiến lược chống chịu tốt có thể vừa đạt được mục tiêu ngắn hạn là bảo vệ hoạt động kinh doanh, đồng thời hợp tác với các chính phủ hướng tới mục tiêu dài hạn là xây dựng các nền kinh tế có khả năng chống chịu. Thêm vào đó, những hành động, kế hoạch trung hạn để nâng cao khả năng phục hồi sẽ cần phải bao gồm hiểu và quản lý tốt hơn mạng lưới của các nhà cung cấp, tăng hiệu quả sản xuất và phát triển các thay đổi chiến lược một cách có hệ thống để khai thác những thị trường mới tiềm năng.
Ngoài ra, nâng cao khả năng phục hồi của các doanh nghiệp trong kế hoạch dài hạn liên quan đến việc xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật số mới và tham gia vào các thỏa thuận quốc tế về tiêu chuẩn toàn ngành..
Hiện các công nghệ mới đang xuất hiện, được kỳ vọng có thể cải thiện đáng kể khả năng phục hồi và khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp. Mô hình chuỗi cung ứng tuyến tính truyền thống đang chuyển đổi thành mạng lưới sản xuất kỹ thuật số. Tận dụng công nghệ kỹ thuật số tiên tiến như Internet vạn vật (IoT), trí tuệ nhân tạo (AI), robot, chuỗi khối, thực tế ảo… giúp dự đoán và đáp ứng những thách thức về cạnh tranh và khả năng phục hồi trong tương lai.
Khung Sendai, một thỏa thuận quốc tế không ràng buộc của Liên Hiệp Quốc và Hiệp định ASEAN về Quản lý thảm họa và Ứng phó khẩn cấp (AADMER) cũng công nhận khu vực tư nhân là bên liên quan chính, chịu trách nhiệm xây dựng các doanh nghiệp. Cam kết với những thỏa thuận quốc tế như vậy sẽ là một sự điều chỉnh có ý nghĩa lớn để các công ty cùng hành động, dựa trên tiêu chuẩn về khả năng chống chịu trong toàn ngành. Cần khẳng định rằng có ý thức xây dựng khả năng phục hồi sẽ là biện pháp tốt hơn cho khả năng cạnh tranh lâu dài của doanh nghiệp.
Hạnh Nhi
(Lược dịch từ The ASEAN Post)