ClockChủ Nhật, 03/07/2022 16:18

In bóng mình trong Huế

TTH - “Về Huế chơi kỳ này, anh nhất định phải đi Tam Giang”, ông anh xứ Quảng - người luôn yêu Huế theo cách đặc biệt - chốt hạ, tôi và nhóm bạn Huế hưởng ứng ngay lập tức.

Lễ hội sông Hương

Tam Giang, chiều gió lộng, mặt phá mênh mông nhuộm một màu nắng vàng rực, không còn tiếng cười đùa nhộn nhạo như lúc mới xuống thuyền, chiều đầm phá đang hút hồn mọi người. Chỉ có thể về với thiên nhiên lòng người mới thật sự yên tĩnh. Cái bao la của đất trời thường làm con người nhìn vào bên trong mình rõ nhất, thấy mình nhỏ bé và cần yên lặng để tôn trọng thiên nhiên. Ông anh đọc cho cả bọn cùng nghe bốn câu thơ: “Tôi ngủ trên mảnh lưới/Bên các anh thủy thủ/Gió gió gió biển vào/Mơ giấc mơ lạ...” và cười bí ẩn “Đố em đó là thơ của ai”.

Tôi đang ngắc ngứ thì anh đọc tiếp: “Tôi níu lấy mảnh lưới/ Lưới là cái cuối cùng/ Đang hắt tôi xuống biển/ Các anh thủy thủ/Hiền khô/Tôi bám vào dây lưới/Bập bồng nhìn xuống/Đáy biển sâu”.

Biết chắc tôi tắt tỵ, anh trả lời luôn “Thơ Văn Cao đó em”, đó là bài thơ “Đêm phá Tam Giang”, bài này anh phải nhờ bạn bè ở Hà Nội vào thư viện lục tìm và chép lại giúp anh đó. Ấy là năm 1987 khi Văn Cao vào Huế, đi thăm làng Chuồn, uống rượu làng Chuồn trên phá Tam Giang và viết “Đêm phá Tam Giang”. Đó là bài thơ thứ ba Văn Cao viết về Huế.

Cuộc trò chuyện của chúng tôi hôm ấy đã dẫn tôi đi tìm thêm tư liệu Văn Cao đã đến Huế, yêu Huế và in bóng mình trong Huế độc đáo như thế nào?  Đúng là Huế thật “đặc biệt” với Văn Cao. Ngay trong lần đầu tiên đến Huế (năm 1940), lúc mới 17 tuổi, Văn Cao đã để lại bài thơ “Một đêm đàn lạnh trên sông Huế” đến bây giờ vẫn là một trong những bài thơ hay nhất viết về ca Huế trên sông Hương.

Thuở ấy, nghe Ca Huế trên sông Hương là một món quà mà bạn bè Huế thường mời khách phương xa trải nghiệm. Thử hình dung hơn 80 năm trước, trên một khúc sông Hương với bóng đêm huyền bí, một con thuyền trôi, một ngọn đèn nhỏ, khách đi tìm tri kỷ, gặp tiếng đàn và lời ca hợp lòng sẽ lắng đọng biết bao nhiêu. Tôi hình dung đêm ấy, Văn Cao - Huế - sông Hương - Ca Huế đã hòa làm một. Ông được nghe những bài Ca Huế trữ tình diễm lệ chở những tâm sự trải lòng sau bóng ngày tắt nắng. Cung vàng điện ngọc cũng như mái tranh nghèo, người nơi chốn lầu son gác tía cũng như người nhà tranh vách đất, màn đêm đã “cân bằng” tất cả để hiển lộ hình bóng con người một cách chân thật nhất. Người địa vị cao sang cũng như người cầm ca lênh đênh đã cởi bỏ những thứ mà cuộc đời phủ lên người họ để lòng được thảnh thơi thở than, thảnh thơi yêu thương, thảnh thơi trò chuyện. Trong đêm ấy, nhạc sĩ Văn Cao gặp tri âm “sao đàn u hoài gì mùa thu?”, nhận ra sông Hương là dòng sông cưu mang và cuộc đời mỏng manh như một con thuyền. Khi tấm lòng gặp tấm lòng, tri âm gặp tri kỷ thì tinh hoa phát tiết. “Một đêm đàn lạnh trên sông Huế” ra đời, cho thấy sự tài tình của Văn Cao trong sáng tạo ngôn ngữ. Văn Cao đã gọi sông Hương là “sông Huế”, một cách gọi mới mẻ mà gần gũi, nghe lạ lùng mà dễ hiểu. Từ hơn 80 năm trước, chỉ duy nhất Văn Cao gọi như thế và cho đến  nay vẫn hay, chưa tên gọi nào khác thay thế được. Văn Cao để lại kỷ niệm trăm năm và nhiều hơn thế nữa cho Huế như thế. Cao quý hơn, ông để lại trái tim nhân hậu với tình thương không phân biệt, yêu thương vô nhiễm của người nghệ sĩ: “Một đêm đàn lạnh trên sông Huế/ Ôi nhớ nhung hoài vạt áo xanh”.

Bài thơ thứ hai Văn Cao viết về Huế cách bài thơ thứ nhất đến 45 năm. Đó là vào năm 1985, Văn Cao về thăm Huế và có bài thơ “Huế xưa”. Huế trong Văn Cao ấn tượng đến độ ông chia sẻ “Huế là nguồn sáng tạo của tôi trong những năm 1940. Thơ và nhạc của tôi đều tìm từ nguồn ấy”. Ngoài thơ, năm 1942 Văn Cao còn viết một bản nhạc về Huế, bản “Sông Hương”.

Vùng đất Huế, con người Huế có điều gì đặc biệt khiến cho bao tao nhân mặc khách đến đây ai cũng để lại tấm lòng mình trong thơ, văn, nhạc, họa... để người đời sau mỗi lần “gặp” lại người xưa là lòng bồi hồi xúc động. Tôi nghĩ mãi, chắc có lẽ điều cốt yếu nằm ở chữ “tình”. Núi, sông ở đây có tình, cây lá có tình và con người có tình. Cái tình cứ quyến luyến khắp nơi, thủ thỉ khắp nơi nên gặp ở đâu cũng nhớ, cũng thương.

XUÂN AN

ĐÁNH GIÁ
5
  Ý kiến bình luận

BẠN CÓ THỂ QUAN TÂM

Chuyển mùa

Đã qua tiết thu phân. Ngọn gió ngoài sông phả về hơi lạnh nghe ra mùi hương đất đai kỳ hoai ủ. Con nhóc giờ này năm xưa rén nhẹ bước chân vo bơ gạo độn khoai, rang thêm mẻ hạt dầu với ruốc. Một phần cho mẹ ra đồng, phần nữa con theo đám các bà dì đi qua chợ huyện rồi đến trường học. Những ngọn đồi mù mịt trong mưa. Đứa trẻ mắt nhắm mắt mở thấy mình mãi vòng quanh không qua hết bìa rừng... Nó ứa nước mắt thèm ngủ vùi trong mùi lá còn vương.

Chuyển mùa
Trăn trở quản lý ca Huế trên sông Hương

Thương hiệu ca Huế trên sông Hương nhìn chung đáp ứng được nhu cầu thưởng ngoạn của du khách thông thường. Trải nghiệm ca Huế trên sông Hương tạo được những ấn tượng khó phai, khiến văn hóa Huế thẩm thấu sâu hơn vào tâm hồn du khách phương xa. Dịch vụ ca Huế trên sông Hương dù vấp phải những ý kiến trái chiều, nhưng vẫn tiếp diễn đến hôm nay với tư cách là một sản phẩm du lịch độc đáo, giúp kéo dài thời gian lưu trú của du khách, tạo công ăn việc làm cho hàng ngàn người dân Huế, đóng góp vào sự phát triển của kinh tế du lịch tại địa phương.

Trăn trở quản lý ca Huế trên sông Hương
Sai sai, ngược ngược…

Tuần vừa rồi, tôi có dịp trở lại thành phố Đà Lạt, được thưởng thức đêm cồng chiêng dưới chân núi Langbiang huyền thoại - một trong những hoạt động được đánh giá là hấp dẫn nhất về đêm tại thành phố ngàn hoa.

Sai sai, ngược ngược…
Mùa trái chín

Sau những cơn dông ngột ngạt hơi nóng của đất và cỏ mục, tiết trời chuyển thu như chỉ sau một đêm về sáng. Nghe trong tiếng vạc kêu khuya kéo theo làn sương mỏng về bên sông. Những khu vườn như vàng lên theo từng gân lá. Bình minh rộng mở. Không gian dìu dịu màu nắng và mùi hương hoa cỏ, trái chín. Mặt nước sông Hương nhuộm sắc trời thiên thanh. Phố quanh quanh, làng tiếp nối cho đến tận đường viền của ngọn núi Phụng mơ hồ một màu tím trong mây nhạt.

Mùa trái chín

TIN MỚI

Return to top