ClockChủ Nhật, 23/08/2020 07:32

Chuyện đời của mệ

TTH - Nhà nghiên cứu Nguyễn Hữu Thông là tác giả của nhiều chuyên khảo ấn tượng về văn hóa Huế, nhất là trong các khía cạnh tôn giáo tín ngưỡng, nhà vườn, nghệ thuật diễn xướng, nghệ thuật tạo hình. Ấy vậy mà điểm lạ là trong Đời của Mệ, ông đã thực sự đưa Huế đến với mọi người, đưa mọi người đến với Huế, với những góc khuất tận tâm can, nếp nghĩ suy trăn trở kiểu Huế, rất Huế, với văn vẻ dạ thưa “rất mệ”, gần gũi mà sang chảnh, như ai cũng thấy được chút gì từ chính mình trong đó.

Kinh thành Huế xưa qua hồi ức của Michel Đức ChaigneauGiới thiệu sách “Vua Gia Long” của Marcel GaultierGiới thiệu sách “Không có bản sắc văn hóa”

Bìa sách Đời của Mệ

Trong thổ ngữ vùng Huế, tiếng mệ, tiếng mụ nghe quá đỗi gần gũi, thân thương, có lẽ bởi trên hành trình mở cõi của dân tộc, cái gốc Việt Mường cổ xưa tiếp xúc hài hòa với yếu tố bản địa phương Nam ở cái rốn Thuận Hóa, định hình nên hồn cốt con người xứ sở này.

Từ buổi đầu, người Việt sớm chuyển hóa bà mẹ xứ sở Poh Iư Nagar thành Thiên Y A Na, cô đọng thành Thiên Mẫu mà dân gian quen gọi Thiên Mụ, mới đưa Bà Trời Áo Đỏ ở đồi Hà Khê, hay núi Hòn Chén về hóa thân thành Quan Âm, khai sinh chùa Thiên Mụ - sứ mệnh tư tưởng của Phật giáo Đàng Trong và xứ Huế thiền kinh.

Phật giáo hòa quyện Đạo giáo và những phương thuật tín ngưỡng dân gian để hóa giải vận hạn Bát thế hoàn Trung đô, giúp hoàng gia chúa Nguyễn hóa giải tai ách nhiều hoàng nam bạo bệnh mất sớm, có chuyện đổi gọi Mệ để che mắt các thế lực siêu linh gây hại. Mệ từ đó được tôn xưng cho hoàng gia, rồi mở rộng dần, như chỉ cái danh phận, cốt cách riêng có của họ, sau lan dần trong tâm thế, nếp nghĩ suy của lớp lớp chủ nhân chốn Kinh đô - Cố đô.

Ở chốn đô thành, Mệ được sinh ra trong danh gia vọng tộc, là thế phiệt trâm anh, ít ra cũng lấy cự tộc làm khát vọng vươn tới. Dù gia môn không giàu có vật chất, Mệ cũng luôn bảo toàn được di sản tinh thần, ráng trông lên ngó xuống để sống, mà hành xử, cho không thẹn với lòng, với tổ tiên, với trời đất và với tha nhân. Mệ noi gương tiền nhân, làm gương cho hậu bối và ráng làm điều tốt đẹp nhất cho gia môn, có “phương danh” và để lại “phước đức” cho con cháu, cho đời. Khi không làm được gì tốt đẹp cao xa thì cũng tối kỵ, không được làm điều xấu xa, “tạo nghiệp”, “ô danh” gia tộc. Cái lý tưởng quân tử của xã hội truyền thống chưa xa tựa như sự “bao đồng” kiểu “vác tù và hàng tổng” luôn thường trực trong Mệ: trăn trở với khát vọng xả thân, đau đáu với nỗi đau của tha nhân, dù chỉ là “dài lưng tốn vải”, có khi gia cảnh “chạy gạo”.

Chính sự uyển chuyển, hòa quyện và linh hoạt của Nho - Phật - Đạo và tổ tiên làm cho Mệ như hội đủ mọi điều để tĩnh tâm, thêm nghị lực khi đứng trước bàn thờ tổ tiên với chữ hiếu - trọng trách hương hỏa. Khát vọng Nho gia là nghị lực đèn sách trên bước đường hoạn lộ, tiếng chuông chùa sắc sắc không không giúp lắng lại và tĩnh tại, sự uyển chuyển vô vi của Đạo gia giúp họ cơ biến “nhập gia - đáo giang” tiến thoái hợp lý. Trước sự khắc nghiệt của thiên tai, sự nghiệt ngã của thế sự, Mệ luôn dằn lòng trấn tĩnh để thích ứng, buông bỏ quan trường, lánh xa thị trường, bất đắc dĩ ly hương hoặc ở lại thúc thủ sau cánh cửa miền phủ đệ danh gia một thời, để làm bạn với thiên nhiên, với tri kỷ tri âm. Xấu che, tốt càng phải che, những gì thấy được từ Mệ chỉ là một chút nhỏ trong “bồ thi thư”, bởi Mệ giữ lại tất cả trong người và chỉ chia sẻ khi cùng tần số.

Lòng tự trọng, tự hào, định hình nên cốt cách, khí phách của Mệ; sự ray rứt, lưỡng lự và loay hoay, lúng túng giữa lằn ranh nghiệt ngã của danh và thực lắm khi làm Mệ thao thức. Đói cho lành rách cho thơm, lời tiền nhân trao truyền mách bảo Mệ chọn lựa phương thức thúc thủ, từ chối mọi cơ hội mần ăn không rõ ràng, khép lại một miền phủ đệ sang chảnh chưa xa, cho lòng mình được sạch, được thơm. Cái hồn cốt Huế đó, chỉ cần được thổi thêm một nguồn sinh lực mạnh thường quân thì quả thật, đời Mệ thật thỏa chí.

Ra đi hay ở lại, trở về hay không, cửa đóng then cài liệu có níu giữ được hồn cốt Huế, lôi kéo bước chân con trẻ hay không... luôn làm Mệ đau đáu. Chính nỗi niềm ưu tư, dằn vặt thường trực đó càng làm cho vẻ mặt Mệ như bình thản hơn, để giấu đi những thảng thốt, giật mình cùng bao tiếc nuối, ngậm ngùi.

Không chỉ “áo em trắng quá nhìn không ra” mà sự uyển chuyển linh hoạt mờ ảo cũng rất khó nhận ra những thăng trầm nghiệt ngã, sự phân thân trong cõi nhân sinh của Mệ. Cửa vẫn đóng, then vẫn cài nhưng Mệ vẫn sẵn sàng thâu đêm suốt sáng với kẻ tri âm, người tri kỷ, luôn mỉm cười mãn nguyện dù có phần chua chát. Rõ ràng, Mệ vẫn luôn là người hạnh phúc, bởi hơn ai hết, Mệ vẫn an lòng bảo toàn được gia môn trước bao biến thiên nghiệt ngã của thời cuộc!

Chuyện Mệ thả om, Trái cấm vườn nhà tôi, Góc nhỏ miền cực lạc, Mệ chơi ca Huế ngủ đò sông Hương thâu đêm, hay Mệ chơi lan tỉ mẩn đầy triết lý từ ngọn lá mà chẳng phải từ hoa, chút rau dại trong vườn cùng tép khô, cá mụn nhưng mâm cơm như hóa rồng hóa phượng, thành tác phẩm nghệ thuật với bao triết lý âm dương ngũ hành... là những góc rặt Huế. Mệ thiệt tài hoa trong sự khốn khó nghiệt ngã của hoàn cảnh để thích ứng, đáng được thông cảm, sẻ chia hơn là mỉa mai, hờn trách. Đó là nốt nhạc ngân vang trong cuộc đời của Mệ.

Qua đây như có bóng hình của ông bà, cha mẹ, người thân và cả chính mình, để nâng niu, để yêu hơn nữa con người xứ sở này. Xin trân trọng giới thiệu cùng quý bạn đọc gần xa những mảnh rời ký ức, nỗi niềm trăn trở và day dứt khôn nguôi trong chuyện Đời của Mệ (sách 222 trang, khổ 14,5 x 20cm, Nxb. Hà Nội - Thaihabook, 2020, Phân viện Văn hóa Nghệ thuật Quốc gia Việt Nam tại Huế bảo trợ).

Bài, ảnh: TRẦN ĐÌNH HẰNG

ĐÁNH GIÁ
Hãy trở thành người đầu tiên đánh giá cho bài viết này!
  Ý kiến bình luận

BẠN CÓ THỂ QUAN TÂM

Cùng Châu Thu Hà “Nhận mặt thời gian”

Trước “Nhận mặt thời gian”, NXB Thuận Hóa, 2023, Châu Thu Hà đã trình làng 2 tác phẩm “Khúc đêm” (2002) và “Nép về phía anh” (2014). Nữ thi sĩ chủ yếu viết về tình yêu lứa đôi. Thơ tình của chị vừa “dữ dội” vừa “dịu êm”, vừa “ồn ào” vừa “lặng lẽ”. Có điều, khoảng cách thời gian khá dài giữa 3 tập thơ tạo cho mỗi tập có những sắc thái tình cảm riêng. Tập đầu: rụt rè và e ấp; tập thứ hai: mãnh liệt và nồng cháy; tập thứ ba: nhẹ nhàng và sâu lắng.

Cùng Châu Thu Hà “Nhận mặt thời gian”
Ẩm thực ven đường Huế

“Ẩm thực ven đường Huế” (NXB Phụ nữ Việt Nam) là cuốn sách mới nhất của tác giả Vũ Thế Thành vừa ra mắt độc giả trong tháng 4 vừa qua. Cuốn sách là góc nhìn của một “người khách phương xa đến Huế nhiều lần” và dành tình yêu đặc biệt với Huế, nhất là những món ăn.

Ẩm thực ven đường Huế
Trong nỗi hoài vọng cố hương

Nhà thơ Triệu Nguyên Phong quê ở Triệu Phong, Quảng Trị, nhưng ông sinh ra và lớn lên tại Thừa Thiên Huế. Ông cũng là hội viên Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế. Cuối năm 2023, nhà thơ Triệu Nguyên Phong vừa ra mắt độc giả tập thơ thứ bảy của mình “Theo bóng ta về”, do NXB Thuận Hóa ấn hành. Các tập thơ trước đó gồm: “Say đắng” (2005), Nắng và mưa (2006), Ta và bóng (2009), Rơm rạ chiều quê (2011), Ngược dòng trăng (2013), Ta tìm ta giữa đời (2017).

Trong nỗi hoài vọng cố hương
Theo đường xuất bản theo đường văn

Với gần 300 trang sách, tập bút ký “Theo đường xuất bản theo đường văn” (NXB Thuận Hóa, 2023) được tác giả Nguyễn Duy Tờ “nhớ, biết và viết” trong suốt thời gian một năm, kể từ tháng 10/2022 - tháng 10/2023. Cuốn sách ghi lại những kỷ niệm, tình cảm đặc biệt của ông dành cho những con người tài hoa mà nhờ “theo con đường xuất bản nhiều năm”, ông đã có cơ duyên gặp gỡ.

Theo đường xuất bản theo đường văn
Độc đáo “Lục bát món Huế”

Tháng 1 năm 2024, anh Lê Tân - người thực hành văn hóa ẩm thực Huế cho xuất bản một cuốn sách hết sức độc đáo “Lục bát món Huế” do Nxb Hội Nhà văn ấn hành. Sách dày 285 trang, in màu rất đẹp, bìa do họa sĩ Đặng Mậu Tựu trình bày. Đúng như tên gọi, “Lục bát món Huế” gồm 480 cặp (960 câu) lục bát, giới thiệu và dạy các món ăn và gia vị đặc trưng Huế. Mỗi món ăn được giới thiệu, ngoài bài thơ lục bát, còn có hình ảnh minh họa, và ghi rõ tên nghệ nhân trao truyền công thức chế biến. Điều đó cho thấy tác giả hết sức nghiêm túc khi ấn hành cuốn sách ẩm thực độc đáo này.

Độc đáo “Lục bát món Huế”
Return to top