|
Cần những chính sách để các gia đình giảm áp lực trong nuôi dạy con cái. Ảnh: TTXVN |
Giảm sinh là vấn đề lớn
"Việt Nam đang có xu thế giảm mức sinh thay thế, mặc dù chưa ở mức báo động nhưng điều này chắc chắn sẽ trở thành vấn đề lớn nếu chúng ta không có giải pháp can thiệp từ bây giờ", ông Lê Thanh Dũng, Cục trưởng Cục Dân số cảnh báo.
Giảm sinh trong bối cảnh già hóa dân số chóng mặt của Việt Nam, lại chưa có các giải pháp đồng bộ để phát huy hiệu quả lợi thế của thời kỳ cơ cấu dân số vàng và thích ứng với già hóa dân số là vấn đề đáng chú ý trong công tác dân số.
Theo đại diện Bộ Y tế, hiện nay công tác dân số đang đối mặt với nhiều thách thức, trong đó có mức sinh thay thế chưa thực sự bền vững. Số con trung bình của một phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ hiện nay chỉ là 1,96 con và tỷ lệ tăng dân số là 0,84% năm 2023.
Theo ông Lê Thanh Dũng, mức sinh thay thế là mức sinh trung bình của người phụ nữ trong toàn bộ cuộc đời của mình, sinh đủ số con để thay mình thực hiện chức năng sinh đẻ và duy trì nòi giống. Mức sinh thay thế là khi tổng tỷ suất sinh đạt 2,1 con/phụ nữ.
Khi mức sinh giảm thấp dẫn tới suy giảm quy mô dân số, cơ cấu tuổi của dân số trong tương lai, suy giảm nhóm dân số trong độ tuổi lao động; tác động mạnh vào quá trình di cư, tăng nhanh quá trình già hóa dân số, mất cơ hội tận dụng cơ cấu dân số vàng…
Tại Việt Nam, hiện nay mức sinh giữa các vùng, miền đang có sự chênh lệch đáng kể. Có 21 tỉnh, thành phố đang có mức sinh thấp; thậm chí rất thấp, tập trung ở khu vực: Đông Nam Bộ, Đồng bằng sông Cửu Long và duyên hải miền trung. Các khu vực có mức sinh thấp đã chiếm khoảng 39,4% dân số cả nước, sẽ tác động rất lớn đến quá trình phát triển bền vững đất nước.
Mức sinh thấp không chỉ diễn ra ở một số đô thị, nơi có điều kiện kinh tế phát triển mà còn xuất hiện ở nhiều tỉnh có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn.
Đặc biệt, khu vực Đông Nam Bộ là khu vực có tỷ lệ sinh giảm sâu. Hiện khu vực này có mức sinh chỉ còn 1,56 con/phụ nữ. Trong khi đó, khu vực Đồng bằng sông Cửu Long còn là khu vực có vai trò quan trọng trong sản xuất nông nghiệp, bảo đảm an ninh quốc gia về lương thực.
Theo các chuyên gia, nguyên nhân của việc người dân đang “ngại” sinh con là do áp lực cuộc sống, áp lực công việc, kinh tế, khẳng định bản thân của con người ngày càng tăng. Đi cùng với đó là áp lực nuôi dạy con cái, nỗi lo về các rủi ro với người lập gia đình… khiến cho người trẻ ngày càng ngại sinh con, ngại kết hôn. Đây là vấn đề đáng báo động.
Nhìn từ bài học dân số già của các nước như: Hàn Quốc, Nhật Bản… Việt Nam cần có những giải pháp kịp thời để “vực dậy” mức sinh, làm chậm quá trình già hóa dân số.
Cần các chính sách động viên kịp thời
Về vấn đề giải quyết tình trạng giảm sinh, các chuyên gia cho rằng, muốn khuyến khích người trẻ kết hôn và sinh con sớm, phải có các giải pháp đồng bộ để giảm áp lực cho họ. Đặc biệt là những áp lực liên quan đến các nhu cầu thiết yếu của cuộc sống như: Nâng cao chất lượng sống, chính sách an sinh xã hội, đảm bảo người lao động có nhà ở, chính sách hỗ trợ cho trẻ em, mức thu nhập đảm bảo... Để giới trẻ có thể yên tâm sinh con, nuôi dạy con cái.
Hiện Bộ Y tế đang xây dựng và hoàn thiện Dự án Luật Dân số; trong đó, có nhiều chính sách được đề xuất thay đổi để phù hợp với tình hình, bối cảnh dân số hiện nay.
Theo Cục Dân số, dự thảo Luật Dân số đang được xây dựng đã đề xuất các biện pháp nhằm khuyến khích sinh đủ hai con tại các tỉnh, thành phố có mức sinh thấp. Trong đó có các chính sách rất thực tế như: Đề xuất hỗ trợ một lần bằng tiền khi phụ nữ sinh con thứ 2; miễn, giảm học phí, hỗ trợ chi phí học tập cho trẻ em lứa tuổi mầm non, tiểu học...
Cùng với đó là xây dựng môi trường, cộng đồng phù hợp tạo điều kiện cho các cặp vợ chồng sinh đủ hai con, chăm sóc và nuôi dạy con tốt, chia sẻ trách nhiệm giữa các thành viên gia đình; quy định trách nhiệm xã hội của người sử dụng lao động đối với người lao động nuôi con nhỏ …
Một số ý kiến cũng cho rằng, để mỗi gia đình có thể sinh được 2 con, thì việc đảm bảo thu nhập cho người lao động để có thể nuôi được 4 người (2 người lớn, 2 trẻ con) là điều Chính phủ, các doanh nghiệp và người lao động cần thống nhất nhận thức và có giải pháp. Khi trong gia đình có 2 người đi làm có đủ thu nhập để 2 con được nuôi dạy, học hành đầy đủ, thì người dân sẽ giảm áp lực khi quyết định sinh con.
GS.TS Nguyễn Đình Cử, nguyên Viện trưởng Viện dân số và các vấn đề xã hội cũng cho rằng: “Để tìm giải pháp cho vực dậy mức sinh trở về mức sinh thay thế, cần có sự linh hoạt hơn trong chính sách và tuyên truyền cho người dân. Cần gỡ bỏ ngay những chính sách đã không còn phù hợp mà áp dụng trong giai đoạn cần giảm sinh trước đây, như việc nhiều nơi xử phạt khi sinh con thứ 3... Trong bối cảnh hiện nay, phải có những chính sách phù hợp với từng vùng. Cụ thể, vùng nào mức sinh đang cao thì cần chính sách giảm sinh riêng; vùng nào mức sinh đã giảm thấp thì có các chính sách về nới lỏng mức sinh, khuyến khích tăng sinh”.
Theo đó, việc xây dựng Luật Dân số cũng là “cơ hội” để các nhà nghiên cứu, các nhà hoạch định chính sách cân nhắc các chính sách về dân số và phát triển phù hợp.
Việc đảm bảo duy trì được mức sinh thay thế, mức sinh hợp lý giữa các vùng, miền giúp chúng ta sẽ có được quy mô dân số phù hợp; duy trì ổn định tỷ lệ dân số trong độ tuổi lao động sẽ kéo dài giai đoạn cơ cấu “dân số vàng”; làm chậm lại thời gian chuyển đổi sang giai đoạn “già hóa dân số”, cải thiện chất lượng dân số tốt hơn.
Trong dự thảo Luật Dân số đang được xây dựng, Bộ Y tế cũng đã đưa ra đề xuất quy định quyền quyết định của cặp vợ chồng, cá nhân trong việc sinh con, thời gian sinh con, số con và khoảng cách giữa các lần sinh, nhằm duy trì vững chắc mức sinh thay thế trên phạm vi cả nước.
“Nếu quy định để người dân có thể chủ động về thời gian sinh con, số lượng con… thì tình trạng mức sinh thay thế giảm có thể được khắc phục phần nào”, ông Lê Thanh Dũng cho biết.