Bùn thải chia thành 6 loại: trong hệ thống thoát nước thải sinh hoạt đô thị, từ hệ thống thoát nước thải công nghiệp, các hoạt động nạo vét kênh mương định kỳ, bể tự hoại, các trạm hay nhà máy xử lý nước cấp và bùn thải từ các công trình xây dựng.
Khối lượng bùn thải từ các hoạt động cần được quản lý thu gom xử lý đảm bảo môi trường
Theo quy hoạch quản lý chất thải rắn tỉnh Thừa Thiên Huế đến năm 2030, định hướng đến năm 2050, khối lượng bùn phát sinh cần xử lý ngày càng gia tăng cùng với mức tăng dân số và các nhu cầu sinh hoạt của người dân. Tỷ lệ phân bùn phát sinh cơ sở được tính toán bằng 0,05m3/năm/người; khối lượng bùn thải, thoát nước thông qua tăng trưởng dân số và dựa vào khối lượng bùn thải thu gom tại TP. Huế và các khu vực lân cận. Dự báo đến năm 2020, phân bùn bể tự hoại 225 tấn/ngày, bùn thải thoát nước 14 tấn/ngày; đến năm 2025, mỗi loại tương đương 236 tấn/ngày và 15 tấn/ngày; đến năm 2030, tương ứng mỗi loại tăng lên 246 tấn/ngày và 16 tấn/ngày. Chưa kể, lượng lớn bùn thải từ hệ thống kênh mương, ao hồ.
Đặc điểm chung của bùn thải là có mùi, hàm lượng chất hữu cơ, ni tơ, phốt pho... rất cao, là điều kiện tốt để định hướng sử dụng làm phân bón cho nông nghiệp. Theo các nhà chuyên môn, mỗi gam bùn cặn có thể chứa 1 triệu vi khuẩn E.Coli, 100-1.000 vi khuẩn Salmonella, 100-10.000 virus Entero, 100-1.000 trứng giun, sán các loại...
Hiện nay, phương thức xử lý bùn thải chủ yếu áp dụng tại các trạm xử lý nước thải trên cả nước là khử nước và chở đi chôn lấp. Một số ít trạm có sản xuất phân vi sinh sau khi làm khô.
Trên địa bàn tỉnh, thời gian qua việc xử lý phân bùn bể phốt được đơn vị chuyên trách thu gom từ nơi phát sinh vận chuyển về các khu xử lý CTR theo hình thức chôn lấp. Tuy nhiên, một lượng bùn thải khác đang còn bị bỏ ngỏ trong khâu quản lý, xử lý. Trong khi, nguồn thải này nếu không được xử lý đảm bảo sẽ rất dễ phát sinh ô nhiễm, gây ảnh hưởng đến sức khỏe người dân, vật nuôi và cây rau màu... nếu bị nhiễm khuẩn.
Đã có tình trạng đơn vị thực nạo vét bùn thải ở các điểm ống cống trên địa bàn TP. Huế nhưng không vận chuyển, xử lý đảm bảo vệ sinh môi trường, nên đã có phản ánh hiện trường của người dân đến Trung tâm Giám sát, điều hành đô thị thông minh. Do không được thu gom vận chuyển đến điểm xử lý theo quy định, khối lượng bùn thải nạo vét khơi thông từ các ống cống được trực tiếp tận dụng cho vào gốc cây hay các bãi đất trống, gây mùi hôi khó chịu, làm mất mỹ quan và dễ phát sinh dịch bệnh.
Tại một số địa phương, nhất là những vùng có dân số đông đúc, công nghiệp phát triển, lượng bùn thải ra lớn, đang được áp dụng một số công nghệ xử lý bùn thải với chi phí thấp. Nhiều sản phẩm được sản xuất ra từ bùn thải được sử dụng làm vật liệu xây dựng, sử dụng trong nông nghiệp. Một số đang áp dụng công nghệ phân hủy kỵ khí để ổn định bùn, khí biogas được thu hồi để tận dụng tạo ra nguồn chất đốt hay được đốt bỏ.
Ngoài chú trọng công tác thu gom, vận chuyển, xử lý rác thải sinh hoạt, chính quyền địa phương cần bố trí quy hoạch điểm xử lý bùn thải hợp lý và lựa chọn công nghệ phù hợp, đáp ứng các yêu cầu theo tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật. Các địa phương, đơn vị quản lý, đơn vị dịch vụ môi trường cũng cần tăng cường quản lý công tác thu gom, xử lý nguồn thải này.
Bài, ảnh: Hoài Nguyên