Các ngân hàng sẽ không được phép cho vay để đặt cọc mua bất động sản hay cho vay góp vốn lập công ty. Ảnh: NGỌC THẮNG
Đây là một trong những điểm bổ sung mới trong Dự thảo Thông tư sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư 39 năm 2016 quy định về hoạt động cho vay của các tổ chức tín dụng được Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đang lấy ý kiến rộng rãi.
Không cho vay để đặt cọc mua bất động sản, góp vốn
Dự thảo Thông tư sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư 39 năm 2016 bổ sung thêm một số quy định về những nhu cầu vốn không được cho vay. Cụ thể, các ngân hàng (NH) không được cho vay để góp vốn, hợp tác đầu tư, kinh doanh mà vốn góp hình thành nên vốn điều lệ của bên nhận vốn góp; góp vốn, hợp tác đầu tư, kinh doanh không hình thành nên vốn điều lệ của bên nhận vốn góp; nhận chuyển nhượng phần vốn góp tại công ty khác; thanh toán tiền đặt cọc để thực hiện các giao dịch trong tương lai mà tại thời điểm đặt cọc chưa đủ điều kiện để thực hiện theo quy định; bù đắp vốn tự có hay hoàn tiền vay để mua bất động sản (BĐS), hàng hóa.
Giải thích chi tiết hơn, NHNN cho rằng việc các NH cấp tín dụng cho khách hàng để đặt cọc hướng đến các công ty này chuyển nhượng BĐS hình thành trong tương lai. Tuy nhiên hầu hết các dự án BĐS sẽ chuyển nhượng chưa đủ điều kiện để thực hiện theo quy định của pháp luật như chưa có giấy phép xây dựng, chưa có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất... Sau khi NH cấp tín dụng khách hàng và chủ đầu tư hủy hợp đồng đặt cọc do không hoàn thiện được thủ tục pháp lý để ký hợp đồng chuyển nhượng. Do đó, việc kiểm soát mục đích sử dụng vốn khó khăn, tiềm ẩn rủi ro.
Tương tự đối với trường hợp cho vay góp vốn, hợp tác kinh doanh hình thành vốn điều lệ của đơn vị nhận góp vốn, NHNN đánh giá trên thực tế cho thấy một số trường hợp chủ đầu tư nhận vốn góp là doanh nghiệp (DN) mới thành lập; các hồ sơ, tài liệu liên quan cho thấy DN không có nhân sự có kinh nghiệm, không có máy móc, phương tiện hoạt động thi công công trình; không có tài sản cố định phục vụ hoạt động quản lý, kinh doanh, chủ đầu tư nhận vốn góp không có khả năng tài chính cũng như năng lực thực hiện dự án... trong khi NH thực hiện thẩm định, quyết định cho vay, kiểm tra, giám sát vốn vay thiếu chặt chẽ. Hay trong việc cho vay góp vốn, hợp tác kinh doanh không hình thành vốn điều lệ của đơn vị nhận góp vốn thì việc đánh giá phương án khả thi và khả năng trả nợ của khách hàng là rất khó. Hay cho vay hoàn vốn tự có tiềm ẩn rủi ro về việc sử dụng vốn vay và tính xác thực của các giao dịch mà NH tài trợ trong thực tế bởi sẽ không kiểm soát được việc khách hàng sử dụng số tiền được giải ngân…
Kiểm soát rủi ro hoạt động cho vay
TS Lê Xuân Nghĩa, nguyên Phó chủ tịch Ủy ban Giám sát tài chính quốc gia, cho rằng thông thường các nhà băng chỉ nên cho vay đối với những dự án BĐS có đầy đủ thủ tục pháp lý, ít nhất là đã có quy hoạch 1/500 hoặc đã hoàn thành thủ tục như quyết định giao đất, nộp thuế chuyển quyền sử dụng đất… Khi đó các NH có thể cho vay để phát triển, hoàn thiện dự án. Nhưng nếu ngay cả việc đặt cọc để mua BĐS còn không đủ tiền thì cho thấy hoạt động của DN quá rủi ro. Tương tự, không ai dám cho vay tiền để góp vốn hình thành nên công ty mà chỉ có thể cho vay để bổ sung thêm vốn trong quá trình hoạt động. TS Lê Xuân Nghĩa nhấn mạnh: Việc bổ sung một số quy định về những nhu cầu vốn không được cho vay như trên sẽ không ảnh hưởng gì đến thị trường BĐS mà chỉ nhằm hạn chế các rủi ro cho hoạt động của hệ thống NH.
Đồng quan điểm, chuyên gia kinh tế, TS Đinh Thế Hiển cũng nhận định: Nguyên tắc hoạt động của các NH là đều có quản trị rủi ro. NH thường chỉ cho vay theo bản chất của vụ việc. Hơn nữa, theo quy định nhà đầu tư phải có tối thiểu 30% vốn để hình thành BĐS thì NH mới cho vay thêm. Trong khi đó khoản tiền đặt cọc ban đầu rất thấp và chỉ là khởi đầu mà nếu người mua BĐS không có thì làm sao NH dám cho vay? Việc hủy cọc, BĐS không đáp ứng được điều kiện để hoàn thiện thủ tục pháp lý sau đó là bình thường và xảy ra nhiều trên thực tế. Khi đó khoản vay này sẽ quá rủi ro thành nợ xấu cho NH. Tương tự, khoản vay góp vốn, hợp tác kinh doanh hình thành vốn điều lệ của đơn vị nhận góp vốn là một khoản đầu tư lâu dài của người chủ sở hữu. Nguồn vốn này không thể sớm rút ra hay nhanh có lãi khi công ty mới hình thành. Hay nói cách khác, việc góp vốn hợp tác kinh doanh bản chất là đầu tư của người có vốn nên NH không cần cho vay.
“Các NH trong hoạt động của mình sẽ tập trung thực hiện các dịch vụ như thanh toán, nhận gửi tiền. Đối với hoạt động cho vay thì các nhà băng sẽ tập trung cho vay vốn lưu động cho hoạt động sản xuất kinh doanh và cho vay tiêu dùng cá nhân. Những hoạt động đầu tư như đặt cọc, góp vốn ban đầu chưa đáng để NH cho vay. Cũng như quy định để chứng minh khả năng tài chính khi cho con đi du học, bảo lãnh góp vốn thành lập DN mà NH lại cho vay thì làm mất đi ý nghĩa của việc chứng minh tài chính cho các hoạt động này. Vì vậy việc bổ sung các quy định này là cần thiết và đưa ra chi tiết hơn để tăng tính an toàn cho hệ thống NH, không ảnh hưởng đến tình hình hoạt động cho vay của NH nói chung hay thị trường BĐS…”, TS Đinh Thế Hiển chia sẻ thêm.
Theo thanhnien.vn