Theo văn bản do Thứ trưởng Nguyễn Văn Hiếu trả lời, Bộ KH&ĐT thống nhất với đề xuất của Bộ Công Thương về kế hoạch số lượng và chủng loại than xuất khẩu giai đoạn 2017 - 2020 của Tập đoàn Công nghiệp Than và Khoáng sản Việt Nam (TKV) và Tổng Công ty Đông Bắc.
Tuy nhiên, Bộ KH&ĐT đề nghị Bộ Công Thương lưu ý tính toán việc xuất khẩu thêm 2 triệu tấn than cám, có hàm lượng lưu huỳnh cao, chất bốc thấp tại khu vực Vàng Danh - Uông Bí, bởi hiện nhu cầu thị trường trong nước đang sử dụng loại than này.
Đề nghị Bộ Công Thương có kế hoạch dự trữ than cho kế hoạch sử dụng sau năm 2020, khi Việt Nam dự kiến sẽ phải nhập khẩu số lượng lớn để phục vụ cho các nhà máy nhiệt điện, tiêu hao nhiên liệu
Thứ trưởng Hiếu đề nghị: "Bộ Công Thương đánh giá lợi ích xuất khẩu so với tiêu thụ trong nước. Nếu trường hợp đánh giá cho thấy việc xuất khẩu mang lại lợi ích cao hơn, Bộ sẽ nhất trí cho phép TKV xuất khẩu 2 triệu tấn than trong năm 2017".
Đặc biệt, Bộ KH&ĐT yêu cầu TKV và Tổng Công ty Đông Bắc cần tập trung vào chế biến những loại than mà trong nước đang có nhu cầu sử dụng, có yêu cầu cao thay vì chỉ tập trung khai thác, xuất khẩu. Về lâu dài, các đơn vị trọng điểm này cần phải có phương án khai thác hợp lý, phù hợp với đặc điểm phân bố trữ lượng, tài nguyên. Đặc biệt phải có kế hoạch lưu trữ cho nhu cầu sau năm 2020.
Theo thông tin, hiện ngoài việc khai thác than trong nước, các doanh nghiệp thuộc ngành than đều nhập than có lưu huỳnh cao, chất bốc cao để phối trộn với than trong nước có chất bốc thấp, bán lại cho các DN trong nước cần, trong đó có các nhà máy nhiệt điện, xi măng, hóa chất, sơ sợi và các lò công nghiệp...
Hiện nhu cầu loại nguyên liệu này khá cao, trong khi đó than nhập từ nước ngoài như Nga, Indonesia cũng đều là loại than hỗn hợp như này, hoặc than kém hơn nhưng giá rẻ hơn trong nước. Tuy nhiên, việc phối trộn các loại than để bán lại đem lại giá trị không cao bằng khai thác than xuất khẩu.
Trong thời gian qua, nhiều nhà máy nhiệt điện, doanh nghiệp trong nước thay vì chọn than trong nước đã trực tiếp nhập khẩu than từ nước ngoài. Đây là một nghịch lý, bởi trong khi than trong nước tồn kho lớn, nhiều loại than có hiệu năng tương tự thì sản xuất bị ngưng trệ do không có đầu mối tiêu thụ thì than nhập từ nước ngoài lại ùn ùn vào Việt Nam với số lượng cực lớn. Thống kê của Tổng cục Hải quan, tính đến ngày 15/10, than nhập khẩu về Việt Nam đã đạt hơn 11 triệu tấn, tăng gấp gần 4 lần so với kế hoạch và tăng hơn 20 lần so với lượng than nhập cả năm 2015.
Bối cảnh sản xuất, xuất khẩu chậm, than tiêu thụ trong nước khó khăn, mới đây Tập đoàn Than và Khoáng sản Việt Nam (TKV) cho biết sẽ cắt giảm hơn 4.000 lao động trong ngành vì doanh thu và lợi nhuận đều sụt giảm...
Phát biểu tại buổi Tọa đàm "Nhập khẩu than và bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia" do Cổng Thông tin Điện tử Chính phủ tổ chức hôm nay (24/10) ông Nguyễn Văn Biên, Phó Tổng giám đốc TKV cho biết: "Hiện toàn ngành than tồn kho 12 triệu tấn, trong đó các DN thuộc TKV là 11 triệu tấn. Tồn kho lớn, giá than trong nước cao ảnh hưởng đến sản xuất của ngành than, đặc biệt là việc làm của lao động toàn ngành".
Theo Dân trí