Kỳ lân chầu trước điện Thái Hòa, Đại Nội Huế.
Trong không gian kiến trúc của người Việt, có khi kỳ lân được bài trí thành từng cặp, đứng chầu trước cung điện của vua, đầu hướng về phía cung điện nhằm biểu hiện lòng trung thành; có khi kỳ lân được bài trí ở trước điện thờ, đền miếu, mặt hướng ra bên ngoài, biểu tượng cho sự tôn nghiêm, kính cẩn. Kỳ lân còn biểu hiện cho uy quyền của nhà vua, vì thế trên ngai vua triều Nguyễn có đôi kỳ lân dùng làm chỗ đặt chân của nhà vua. Kỳ lân còn là linh vật biểu trưng cho thái tử trong mối quan hệ: rồng (nhà vua) - kỳ lân (thái tử) - phượng hoàng (hoàng hậu). Kỳ lân còn là biểu tượng của hạnh phúc, đoàn viên như ngụ ý trong vũ điệu Lân mẫu xuất lân nhi trong múa cung đình Huế.
- Rùa: Rùa là con vật biểu tượng cho sự trường thọ, sinh lực và sức chịu đựng. Rùa mang chiếc mai hình vòm trên lưng, biểu tượng cho bầu trời và phần mai phẳng dưới bụng biểu tượng cho mặt đất. Những đường rãnh ở phần trên của mai rùa tương ứng với chòm sao Đại Hùng trên trời, biểu thị cho nguyên lý dương. Những đường rãnh ở phần dưới mai rùa tương ứng với mặt đất, biểu thị cho nguyên lý âm.
Trong kiến trúc và trang trí Việt Nam, rùa thường được thể hiện cùng các linh vật khác thuộc bộ tứ linh, nhưng phổ biến nhất là hình tượng “rùa đội bia” và “rùa đội hạc” trong các đình, chùa và trong Văn miếu Hà Nội và Văn miếu Huế.
- Chim phượng: Chim phượng được tôn vinh là vua của các loài chim, được sinh ra từ mặt trời và lửa. Chim trống gọi là phượng, biểu tượng cho phúc lộc, chim mái gọi là hoàng, biểu tượng cho hoàng hậu, xuất hiện bên cạnh hình tượng rồng biểu tượng cho vua. Loài linh điểu này cũng là hiện thân của nhiều loài vật khác: cổ rắn, mỏ gà, đuôi chẻ như đuôi cá, trán của chim hạc, mào của vịt xiêm, thân có những dấu vằn của rồng và phần đằng sau cuốn vòm như con rùa. Lông chim phượng có 5 màu, tiếng hót của phượng hoàng như tiếng nhạc và có 5 biến điệu diệu kỳ. Chim phượng cũng là biểu tượng của hiền đức, không giết hại côn trùng, làm hại cây cỏ. Chim phượng cư ngụ trên cây ngô đồng, ăn hạt hoa trúc, uống nước ở các dòng thác. Trứng của chim phượng là thức ăn của các vị thần tiên.
Đồ án phượng trang trí ở mặt chính cửa Trường An, Đại Nội Huế
Trong kiến trúc và trang trí thời Nguyễn, hình tượng chim phượng thường xuất hiện nơi các cung điện hay trên trang phục dành cho hoàng hậu, hoàng thái hậu, thái hoàng thái hậu, được thể hiện bởi 3 hay 5 chiếc đuôi, phân biệt với chim loan, là biểu tượng của công chúa, chỉ có 1 chiếc đuôi. Trong kiến trúc đình miếu dân gian, hình ảnh phượng hoàng thường gắn với nơi thờ các vị nữ thần.
… và những linh vật khác
Ngoài tứ linh, người Việt cũng tôn vinh và sử dụng một số linh vật khác làm biểu tượng văn hóa và tín ngưỡng như:
- Long mã: Long mã là hóa thân của kỳ lân, là sự kết hợp đặc biệt giữa rồng, lân và ngựa. Đó là một linh vật có sừng và bờm của rồng, mình của con hươu xạ, thân có vảy của kỳ lân, chân và móng của ngựa; cao “8 thước 5 tấc, xương cổ dài, cánh bên phải nhúng xuống nước mà không ướt, trên có thánh nhân để bức cổ đồ”.
Ở Huế, hình ảnh long mã xuất hiện nhiều nhất là trên các bức bình phong, một “sản phẩm đặc trưng” của xứ Huế. Đó là hình ảnh con long mã lưng mang Hà đồ, chân lướt trên sóng nước, đầu vươn tới các tầng mây. Long mã cũng xuất hiện trên các cung môn, miếu môn trong hoàng cung triều Nguyễn và thường đi kèm với các linh vật khác như: rùa, kỳ lân hay chim phượng.
- Nghê: Nhiều ý kiến cho rằng, nghê là linh vật do người Việt sáng tạo ra, khác hẳn với kỳ lân hay sư tử. Nghê là hóa thân của con chó, người bạn thân thiết với người dân Việt Nam. Nếu con chó là vật canh giữ của cải, nhà cửa cho người dân, thì nghê là con vật canh giữ về mặt tinh thần, chống lại các thứ tà ma, ác quỷ.
Hai con nghê trấn giữ trước cửa Hiển Nhơn, Đại Nội Huế
Nghê không chỉ xuất hiện trong các làng quê Bắc Bộ mà còn hiện diện trong các kiến trúc cung đình ở Huế. Trước cửa Hiển Nhơn và trước Miếu Môn Thế Tổ Miếu trong Hoàng Thành Huế có hai đôi nghê đá đứng chầu. Khác với hình tượng các con nghê ở đồng bằng Bắc Bộ, hai đôi nghê ở Huế đã được “cung đình hóa” với các chi tiết chạm trổ cầu kỳ, tạo thành các chòm lông xoắn ở đầu, mang tai và đuôi, xen kẽ các đao lửa ở 4 chân và sống lưng.
- Voi: Voi tượng trưng cho sức mạnh, sự khôn ngoan, thận trọng và là 1 trong 4 con vật đại diện cho sức mạnh và sinh lực bên cạnh hổ, sư tử và báo. Voi cũng là 1 trong 7 báu vật của Phật giáo nên hình tượng của voi xuất hiện nhiều trong kiến trúc và trang trí Phật giáo.
Cũng cần lưu ý rằng, dù chịu ảnh hưởng Trung Hoa khi lựa chọn một số linh vật làm biểu tượng, người Việt cũng tạo hình các linh vật này khác hẳn với cách tạo hình của người Trung Quốc; tính chất của các linh vật này trong quan niệm của người Việt Nam cũng không giống với quan niệm của người Trung Quốc. Đơn giản là vì người Việt luôn tiếp thu có chọn lọc và Việt hóa những gì đến từ bên ngoài, chứ không tiếp nhận hay vay mượn theo kiểu rập khuôn.
Trần Đức Anh Sơn
* Bài viết có tham khảo tư liệu từ các sách: Mỹ thuật Huế nhìn từ góc độ ý nghĩa và biểu tượng trang trí của Nguyễn Hữu Thông (Thuận Hóa 2001); Outlines of Chinese Symbolism and Art Motives của C.A.S. Williams (Đài Bắc 1977) và Dictionary of Chinese and Japanese Art của Hugo Munsterberg (New York 1981)