Bìa sách “Quay đầu lại là bờ”
Câu thành ngữ quen thuộc được tác giả mượn làm tên sách thật là đích đáng đối với hoàn cảnh và tâm trạng của Trương Thuấn, khi ông ta từ Mỹ bất ngờ trở về quê nhà trong ngày giỗ ông giáo Thọ. Thuấn không phải là nhân vật chính trong tác phẩm - theo thuật ngữ văn học thì ông ta là “nhân vật phản diện”, nhưng xoay quanh Thuấn là loạt mối quan hệ phức tạp với nhiều tình tiết gay cấn tạo nên bi kịch, có sức cuốn hút bạn đọc.
Nhiều nhà văn trong và ngoài nước đã xây dựng tiểu thuyết thông qua sự thành - bại, được - mất của một vài gia đình để phản ánh cả giai đoạn lịch sử đất nước; QĐLLB cũng vậy. Nhưng điều có lẽ khiến không ít bạn đọc bất ngờ là xoay quanh chỉ một gia đình ông giáo Thọ bình thường ở một tỉnh lỵ nhỏ khiêm tốn, chứ không phải là tướng lĩnh hay “danh gia vọng tộc” ở các đô thị trung tâm; và cũng chỉ với một tập sách 400 trang, chứ không phải tiểu thuyết bộ đôi, bộ ba như không ít trường thiên tiểu thuyết gia đình từng nổi danh trên văn đàn; vậy mà QĐLLB đã “chạm” đến hầu hết những sự kiện lớn của lịch sử đất nước hơn nửa thế kỷ vừa qua, trong đó những cuộc đối đầu gay cấn nhất diễn ra trên đất Huế.
Ví như vào đầu tiểu thuyết là khoảng năm 1990, khi tác giả viết: “Đã hơn 15 năm sau ngày đất nước thống nhất, non sông thu về một mối, ngọn lửa chiến tranh đã lụi tắt từ lâu. Những toan tính vuông tròn cũng đã ngã ngũ, tàn cuộc…”. Đó là lúc lễ cầu siêu linh hồn ông giáo Thọ được tổ chức và “Đây là lần đầu tiên, con cháu ông giáo Thọ cả ba miền Bắc, Trung, Nam đều không hẹn mà gặp. Lại có cả người từ bên Mỹ cũng tìm về…”. Một cách mở đầu tiểu thuyết hàm ý tác giả sẽ đặt ra những vấn đề hậu chiến, nhưng với nhà tiểu thuyết, chỉ khi “vấn đề” đặt ra được bạn đọc cảm nhận qua số phận nhân vật thì mới có giá trị thẩm mỹ và cả nhận thức nữa. Chính vì thế, ngay sau chương mở đầu, Hữu Phương đã cho bạn đọc “lật trang sử” gần nửa thế kỷ trước, khi viên cảnh sát Trương Thuấn bỏ vợ con, xuống tàu di cư vào Nam. Dưới đây là đoạn trích đối thoại giữa Thuấn với Huấn là người anh em cọc chèo, một chiến sĩ an ninh Việt Minh:
Mặc anh ta trả lời một cách cao ngạo, Huấn vẫn kiên trì thuyết phục, hy vọng lôi kéo Thuấn: “Tôi biết dượng rất yêu thương dì ấy… Cách mạng luôn luôn khoan hồng và tạo điều kiện cho những người lầm lạc quay về…”. Nhưng “bởi mỗi bên có một lý tưởng riêng, một con đường riêng” nên và Thuấn vẫn vào Nam.
Như thế, chỉ qua 2 chương mở đầu tác phẩm, nhà văn đã khéo “gắn kết” biến cố và cũng có thể nói là bi kịch của dân tộc khi đất nước phải chia đôi với những số phận và bi kịch trong gia đình ông giáo Thọ. Quả đúng là bi kịch, khi Huấn - chồng Loan, người chị cả, lại phải đối đầu với Thuấn là chồng cô Phúc, con gái út ông Thọ; cuộc đối đầu kéo dài suốt từ thời chống Pháp cho đến Tết Mậu Thân 1968 trên đất Huế - Huấn bị truy đuổi phải trốn xuống hầm bí mật và Thuấn, do sợ Huấn từ dưới hầm tung lựu đạn lên, đã gọi phi pháo dập nát khu vực đó. Không chỉ thế, để “cảnh cáo” những người theo “Việt Cộng”, Thuấn đã cho treo xác Huấn nơi ngã ba đường suốt 3 ngày! Tình cảnh Loan phải biền biệt xa chồng khi Huấn vào Nam chiến đấu; với Phúc thì còn nỗi nhục nhã mang tiếng có chồng theo giặc cũng đều là bi kịch, dù không đổ máu.
Ba người con khác của ông giáo Thọ và cả bản thân ông lại ở vào những hoàn cảnh cũng không kém bi kịch. Ông giáo gửi gắm biết bao hy vọng vào người con trai cả (Báu) ra Hà Nội học, trở thành kỹ sư công chính danh giá, mang theo cậu út (Trung) học đại học; nhưng số phận trớ trêu và đất nước chia cắt khiến ông giáo bao năm mang tiếng nhục nhã do Báu bỏ vợ ở quê, tệ hơn là cả hai anh em rời bỏ kháng chiến, rồi vô Nam phục vụ cho “ngụy quyền”. Mặc dù là vô tình, Báu còn mắc “tội” lấy Mỹ Phương, người yêu của em trai suốt một thời trai trẻ… Nhưng quả là sự đời không ai ngờ; mãi tới khi Mỹ Phương qua đời vì tai nạn giao thông, Báu đọc nhật ký của vợ mới hay suốt đời nàng chỉ yêu thương Trung và cũng mãi đến khi ông Báu mất, con trai ông (Huy) lục đáy va li mới hay bố mình là đảng viên Cộng sản, được “Bắc Việt” cài vào hoạt động ở miền Nam.
Ông giáo Thọ còn người con rể có số phận khá kỳ lạ. Đó là Phan Trường; anh đang là sinh viên Hán-Nôm thì nhập ngũ, rồi vô Huế; cái ngành học “trái khoáy” lại cứu anh thoát chết, khi bị địch truy đuổi phải chạy trốn vào một ngôi chùa, được nhà sư che chở và nhờ cái vốn Hán Nôm, anh đã đánh lừa được cảnh sát; nhưng dần dà triết lý nhà Phật nhập tâm, anh trở lại quê hương đã thành đại đức Thích Vĩnh Trường! Cuộc đời anh không hẳn là bi kịch nhưng với người vợ, bao năm đau buồn thờ chồng liệt sĩ, nhưng ngày Trường trở về lại thành ông thầy tu thì chẳng thể nào vui.
Với viên cảnh sát Trương Thuấn, tuy di tản sang Mỹ, nhưng “miền đất hứa” không đem lại cho anh cuộc sống thanh thản do những ám ảnh chiến tranh - đặc biệt là việc anh sát hại Huấn - người anh em cọc chèo, đã biến thành “con ma” quấy phá anh suốt ngày đêm. Vì thế mà anh phải tìm về Huế, tìm lại ngôi chùa đã chôn cất Huấn và đưa di hài anh về quê, tình cờ đúng ngày cầu siêu ông giáo Thọ. Những chương sách giàu kịch tính nhưng số phận đầy bi kịch của Thuấn rút cục được vơi nhẹ rất nhiều, nhờ anh em, vợ con thương xót cảnh ngộ con người lầm lạc đã biết “quay đầu lại là bờ”.
Chương cuối tiểu thuyết còn tươi sáng hơn với cảnh thành phố quê hương đổi mới, rực rỡ trong đêm bắn pháo hoa, cùng lúc Trung nhận lời về nước làm cố vấn luật sư cho một tập đoàn vừa thành lập; hơn thế, Trung, với cái vốn sĩ quan pháo binh, còn giúp thành phố gỡ một “thế bí” về kỹ thuật bắn pháo hoa và trong tình yêu thương chung với quê hương, anh đã tìm được “nửa cuộc đời” của riêng mình...
Bài, ảnh: Nguyễn Khắc Phê