Bấy giờ bầu trời sáng còn mờ sương. Sương giăng kín mấy lũy tre làng, giăng kín cả lối đi. Mấy bác lão nông tri điền vác bừa đánh trâu ra đồng sớm như thể đi trong ma trận sương mù, mà chủ yếu là bám đuôi trâu mà đi, đường làng rộng mà nện bằng đất nên không sợ vấp chân đau, chỉ thỉnh thoảng có cái gai tre nó chích thì dừng lại gỡ chút xíu xong rồi đi tiếp. Con trâu khịt mũi ngửi đường đi trước, lão nông ngậm tẩu thuốc theo sau, phả khói thuốc vào sương, cũng mù mù trắng xóa như nhau. Lại thêm lão nông nào cũng đánh theo con cúi. Con cúi đánh bằng rơm để giữ lữa, cũng bốc khói trong sương, cũng hòa khói vào trong không gian yên ắng lúc bấy giờ thỉnh thoảng vẳng tiếng gà gáy tan sương.
Đoàn người và trâu đi, kẻ trước người sau, trâu đi theo đàn. Ai không có trâu thì vác cuốc, vác thêm cái vồ đập đất. Một đầu cán cuốc lại khoác thêm cái ấm nước chè nút lá chuối kẻo nước trào ra ngoài. Ra đến đồng bưng biền ven sông thì trời tan sương, đã rõ mặt người. Việc làm đồng bắt đầu. Ngày đó chưa có nhiều máy cày, trên đồng chủ yếu trâu cày bừa lẫn với người cuốc đất, tơi cỏ. Đầu tiên là đập đất cho tơi. Đất thường được cuốc trước đó để khô cho dễ làm, gặp nắng thì gọi là đất rang. Muốn làm cho đất vỡ nhỏ, một là nhờ trâu bừa, hai là dùng cái vồ đập đất. Cái vồ thật đặc biệt, làm bằng một khúc gỗ lớn bằng bắp chân, thường là gỗ mít trong vườn, hình trụ. Muốn đập cục đất to thì dựng cái vồ lên mà nện thật mạnh, đất tơi nhỏ ra thì dùng cái thân vồ nằm ngang mà đập. Đồng ruộng màu mênh mông, vậy mà cái vồ nhỏ xíu từ tay người giơ lên nện xuống trong sương, chẳng mấy chốc mà đất tơi như có ai xay.
Tiếp đó đất được đánh thành vồng. Hàng hàng đất nằm cạnh nhau như những đứa con đất đai sinh đôi, sinh ba, sinh chục, sinh trăm, sinh ngàn. Những luống đất nằm nối nhau, song song nhau được trồng đủ thứ rau màu: sắn với các loại sắn mì, sắn ba trăng, sắn trắng trồng chen với bắp trỉa hai bên vồng; khoai có các loại khoai lang, khoai hoàng long, khoai tía, khoai từ; đậu có các loại đậu xanh, đậu đen, đậu huyết; cà có cà dĩa, cà pháo; ớt có các loại ớt ta, ớt hiểm, ớt chỉ thiên... Trồng, trỉa xong thì đã chiều xế bóng, bữa lợ cho dạ dày đang trống rỗng vì lao động nặng được dọn ngay trên bờ ruộng. Thường là chè hoặc xôi đậu. Đơn giản mà vui. Tiếng nói cười rộn ràng trên đồng vọng từ đầu triền sông đến cuối triền sông, trải dài đến mấy cây số. Thi thoảng vào những năm tám mươi thế kỷ trước, còn nghe được cả giọng hò anh nông dân trai làng: “Trăng lên đỉnh núi Mu Rùa, em ơi cho anh chịu, tới mùa anh đong khoai”... Chiều tối thì việc đồng áng đã xong, những cây trồng như cà ớt được tưới tắm. Rồi vài tuần sau, đồng bưng biền bật dậy mầm xanh, trải dài một không gian đầy hi vọng mùa màng.
Giêng Hai nay qua đồng bưng biền, rau màu đã lên xanh mà nhớ ngày xưa. Bây giờ đàn trâu đã vắng dần, cái vồ cũng đã mất không còn thấy nữa, máy móc làm thay con người đã từ hai chục năm nay. Nhưng sao cứ nhớ Giêng Hai thưở đó. Nhất là dáng cha thổi con cúi đã tàn lúc cuối chiều thắp điếu thuốc vấn, bấy giờ đã cháy ngắn còn độ gang tay. Khói con cúi bay trong chiều vàng, bay từ xưa đến mấy chục năm sau, còn nhớ ơi là nhớ...
Hạ Nguyên