Trải qua năm tháng biến thiên của lịch sử, nhiều quả chuông nay đã bị mưa nắng gió sương đẩy trở về với cát bụi, nhưng âm thanh huyền diệu của nó thì đã thấm vào tận cùng ngõ ngách của miền tri giác làm nên sức mạnh nhiệm mầu “sắc, không”. Và bằng tha lực âm thanh, nó kéo Con Người mong manh trong kiếp phù sinh của vũ trụ tự ý thức về sự nối tiếp vĩnh hằng dưới Cõi Tạm.
Tháp chuông trên đỉnh núi Ngũ Phong
Chính vì tri ngộ được sự nối tiếp ấy mà Con Người thường sáng tạo ra và tìm đến những âm thanh đồng vọng như tìm về cội nguồn nhân bản, để đánh thức lòng hướng thiện vào một thế giới nhân văn sâu thẳm hơn. Và trong một sát na hay thậm chí chuỗi những sát na thỏa mãn dục vọng, những ham muốn danh lợi phù vân ở trần gian này, đời người ngẫm lại chớp mắt thoảng qua chỉ như một hồi chuông mà thôi. Dẫu vậy, Con Người vẫn không thể sống thiếu những âm thanh linh diệu ấy được...
Xứ Huế có những quả chuông thiền âm rất kỳ lạ. Ví như gần ba thế kỷ trước, dưới thời chúa Nguyễn Phúc Chu, từ trên ngọn đồi Hà Khê thấm đẫm câu chuyện huyền thoại vị chân sứ nhà trời giáng thế. Bỗng một sớm mai lên, chuông chùa Thiên Mụ đột nhiên gióng giả thả vào thinh không những hồi ngân dài, báo hiệu một giai đoạn chấn hưng của đạo Phật. Để đến bây giờ khi mọi sự đã trở về với rêu phong cổ tích, thân xác nó vẫn còn trầm mặc đứng lặng trên ngọn đồi Hà Khê chứng kiến bao lớp phế hưng thay đổi, nhưng thiền âm diệu vợi của nó thì vẫn còn là sự hoài niệm, vẫn chiếm lĩnh được vị trí quan trọng trong niềm sống tâm hồn người Việt.
Hơn một trăm sáu mươi năm trước, vào thời vua Nguyễn Thiệu Trị, từ phía đông ngoài kinh thành Huế, bên phố Gia Hội cạnh bờ sông Đông Ba, tiếng chuông báo hiếu tri ân của chùa Diệu Đế ngân lên cùng với tiếng trống Tam Tòa hòa nên một bản tiết tấu đạo - đời diệu vợi, vừa thổn thức lòng người, vừa chuyển tải khát vọng đòi quyền dân chủ bằng âm thanh nhạc khí...Và bây giờ, vào tháng hai âm, đầu năm Đinh Hợi 2007 này, trên một đỉnh cao của dãy núi Ngũ Phong, thuộc lớp đệ nhị án sơn (núi Ngự Bình được xem là đệ nhất án sơn) trước mặt kinh thành cổ kính, người Huế lại vừa xây thêm một lầu chuông nhỏ và treo lên đó một quả chuông lấy tên Hòa Bình. Lầu chuông này và ngôi đền thờ vị thần Công chúa nhà Trần dưới núi là hai công trình nằm trong tổng thể kiến trúc Trung tâm văn hóa Huyền Trân. Mà chỉ với hai chữ Hòa Bình thôi đã đủ nói lên tư tưởng chủ đạo và ước vọng của những người dựng lầu, đúc quả chuông này rồi...
Buổi sáng hôm ấy, đúng ngày kỷ niệm 32 năm quê hương Cố đô giải phóng, người Huế hoan hỉ kính cẩn tổ chức khánh thành công trình văn hóa giàu tính tâm linh và tri ân Công chúa Huyền Trân. Khi những giọt sương đêm còn đang ngái ngủ đọng lại trên lá cây ngọn cỏ, tôi đã có mặt ở chân núi Ngũ Phong để dự ngày lễ trọng này. Đây là một công trình kiến trúc mới, được xem như một tác phẩm nghệ thuật tổng hòa thuộc về “ trường phái ẩn dụ vừa cổ vừa tân” thể hiện lối ứng xử của hậu thế, nhằm tôn vinh công lao vô lượng của người con gái nước Việt, vị sứ giả hòa bình năm xưa dấn thân ngàn dặm xa xôi từ Thăng Long vào đây khai lập, mở ra một vùng đất phên dậu Ô Lý rộng lớn bằng mấy tỉnh bây giờ. Sau lễ dâng hương lên Huyền Trân, tôi theo con đường bê tông khá rộng nằm về bên trái ngôi điện, hòa vào dòng người nghìn nghịt như nêm, ngược dốc leo núi.
Con đường bê tông này mới mở, dài hơn bốn trăm mét, dẫn tôi đến một ngã ba vòng xuyến nhỏ. Tại đây người ta đặt một pho tượng ngồi, được đúc bằng xi măng cốt thép khá đồ sộ; hình nhân phúc hậu, khuôn mặt tươi vui, nụ cười mãn nguyện, nhìn qua rất giống ông Phật Di Lặc, nhưng người hướng dẫn vẫn khăng khăng nói với tôi rằng: “Ông ấy là Thần Tài, cũng mang vài nét của ngài Thổ Địa”. Tôi nhìn một lúc, lục tìm tất cả trí nhớ, thấy đôi chỗ hình tướng hơi khác lạ, không biết vị nào ngồi đây? Thì ra những người xây dựng Trung tâm văn hóa Huyền Trân ước muốn rằng trước khi lên núi, ta hãy dừng lại trước dung nhan pho tượng này để nghỉ chân; tùy theo vị thế, hoàn cảnh xã hội, nghề nghiệp, tôn giáo tín ngưỡng, quan niệm của mỗi người mà thành tâm cầu nguyện cho riêng mình, gia đình và Tổ quốc: “Hòa bình an lạc. Từ bi hỉ xã. Phúc lộc đầy nhà. Đất nước hùng mạnh và phát triển ...”, miễn là lời cầu nguyện ấy nhân bản, hướng thiện thì Phật Di Lặc hay bất cứ vị Phúc thần nào cũng đều phò trợ. Rồi tiếp tục leo núi, lên lầu chuông Hòa Bình, để thỉnh một hồi dài. Lầu chuông này cũng được khánh thành cùng buổi với ngôi đền thờ thần nữ Huyền Trân dưới núi.
Chừng nửa giờ ngược dốc, vừa leo vừa nghỉ như lần tràng hạt, tôi lên đến lầu chuông được đặt trên một ngọn núi cao đúng 108 mét của dãy Ngũ Phong; lầu này xây tựa lối cổ, cao bảy mét, mái hình lục giác trùng thiềm. Trong lầu người ta treo một quả chuông bằng đồng nguyên chất, do những nghệ nhân cơ sở đúc đồng nổi tiếng Nguyễn Văn Sính thuộc Phường Đúc Huế thực hiện. Chuông cao 2,16 mét, đường kính miệng rộng 1,26 mét, nặng 1,6 tấn. Quai gánh thân chuông được đúc theo lối truyền thống mang hình long mã đối lưng vào nhau (trông xa hơi giống hình hai con bồ lao sống ngoài biển cả, mà theo huyền thoại khi bồ lao hóa vào quả chuông thì tiếng kêu vang dội và thanh trầm hơn), thân chuông hình trụ dưới to trên nhỏ. Quanh chuông chia làm tám ô: bốn ô phía trên khắc tám chữ ước nguyện rất lớn: Thế giới hòa bình. Nhân loại hạnh phúc. Bốn ô phía dưới khắc bốn “di sản” tiêu biểu đại diện cho đất nước thống nhất từ Bắc vào Nam, bao gồm: Trung tâm Phật giáo Yên Tử; chùa Diên Hựu (Một Cột) Hà Nội; chùa Thiên Mụ Huế; chùa Giác Lâm TP Hồ Chí Minh và bốn núm lồi dùng để đảnh chuông. Phần dưới cùng gần miệng chuông chạm hình rồng mây ẩn hiện. Tất cả các chữ chạm khắc trên thân chuông đều bằng quốc ngữ và được nghệ nhân trình bày mỹ thuật rất tinh xảo theo lối thuần Việt, ai nhìn cũng dễ hiểu.
Kể như đến bây giờ, đây là quả chuông đầu tiên ở Huế đặt trên một ngọn núi cao cận kề trung tâm thành phố. Từ vị trí ấy, nó nghiễm nhiên chiếm lĩnh được cả không gian lẫn sự cộng hưởng của các ngọn gió, và nhờ vậy mà nó có sức lan tỏa âm thanh ra bốn phía hài hòa.
Cũng như mọi người trước khi lên Ngũ Phong, tôi đứng lặng thật lâu trước linh tượng vị thần trấn trị dưới núi cúi đầu cầu nguyện, những mong sức mạnh quyền lực siêu nhiên phù trợ cho tất cả đất nước mình đều được bình yên và thịnh đạt, rồi quảy theo tâm nguyện ấy mà thượng sơn.
Trên đỉnh Ngũ Phong bấy giờ người chờ thỉnh chuông rất đông. Mặc dù đỉnh núi khá rộng và bằng, nhưng lúc này trở nên chật chội. Tôi đứng cách lầu chuông một quãng về phía bắc để quan sát chung quanh và chờ đợi. Gió xuân mơn mởn thổi nhẹ đem theo mùi hương trầm thoang thoảng lan vào núi non, một cảm giác lâng lâng thật dễ chịu. Từ chỗ này tôi có thể nhìn xuống thành nội, nơi xưa kia các ông vua nhà Nguyễn ngự trị, hoặc ngược lên Trường Sơn hùng vĩ, hay về đầm phá biển cả mênh mông... hướng nào cũng đều thuận tiện. Và chỉ với việc lên núi để được ngắm nhìn thành phố thôi, tôi thấy cũng thú vị lắm rồi. Quả thực, Huế tuyệt vời hơn khi ta nhìn từ độ cao thích hợp.
Vào giữa Ngọ đứng bóng, phiên của ông già áo lam vừa dứt, cũng là thời khắc đến lượt tôi thỉnh chuông. Trong niềm hoan hỉ của duệ trí, tôi dong tay đảnh một hồi dài đủ 18 tiếng. Âm thanh u vọng của chuông Hòa Bình nhào trộn với gió ngàn, dội vào thinh không, vượt qua núi non cách trở, bay tới những miền xa xôi mờ ảo... Đảnh xong hồi chuông dài, tôi đứng lặng như cây thông xanh mọc thẳng giữa trời qua gió bão, lắng nghe nhịp điệu tiếng chuông đang truyền đi sứ mệnh của âm thanh cùng những lời cầu nguyện phước lành nhân thế. Bỗng nhiên tôi thấy tâm mình lay động một cách lạ thường. Mà hình như tiếng chuông Hòa Bình đã nhẹ nhàng khai mở tâm ấn, làm nguội đi những ham muốn danh lợi căn cố trong tôi lúc nào chẳng hay? Và rồi theo thời gian, tiếng chuông ấy sẽ an nhiên trong ngũ hành như mây khói...
Thanh thản và bình tâm hơn sau những tiếng chuông ngân dài giữa đất trời lồng lộng; tôi bái lạy sơn thần Ngũ Phong rồi xuống núi...
Hôm ấy, sau lễ khánh thành đền thờ Huyền Trân mấy hôm, thời tiết Huế bất ngờ nắng nóng, khó chịu vô cùng. Đêm rằm tháng hai oi nồng như giữa mùa hạ; đã ba giờ sáng mà tôi vẫn không sao ngủ được. Trằn trọc mãi và tôi cứ nằm nghĩ mung lung như người bất an. Cuối cùng tôi bèn bật dậy, mở cửa sổ nhìn ra, ngoài vườn ánh trăng bàng bạc trải mềm trên những tán lá. Một cảnh giới quán tưởng thật là huyền ảo. Tôi ngồi nhìn ánh trăng rơi và hít thở đều đều theo nhịp điệu dưỡng sinh. Trong một thời khắc tịnh niệm, tâm trí tôi bỗng nhiên chìm vào giấc mơ và thiếp đi lúc nào không hay. Giấc mơ miên man chở tôi bay qua những miền dài rộng khắp đất nước. Giấc mơ cứ đi mãi, đi mãi với tốc độ siêu nhiên rồi quay trở về trên núi Ngũ Phong. Tại đây tôi gặp hai tiên ông, râu tóc trắng nhòa như sương như cước đang ngồi đánh cờ cạnh lầu chuông Hòa Bình. Một tiên ông cười và phán lên rằng:“Xây đền rồi thì phải thành tâm cầu nguyện. Nữ thần Ngũ Phong linh ứng lắm...”. Lời phán chưa xong thì hai tiên ông cứ ngồi thế đằng vân mà bay về trời. Tôi chạy theo cố níu lại để hỏi thêm, luýnh quýnh bước chân nên vấp phải mỏm núi ngã nhào, giấc mơ đứt quãng, tôi bừng tỉnh, cũng là lúc trời vừa hừng sáng. Giấc mơ miên man đêm qua làm tôi khó giải đoán, tôi quyết định trở lại ngôi đền Huyền Trân ngay hôm ấy. Có lẽ nén hương thơm dâng lên Huyền Trân Công chúa lúc này mới làm tôi bình tâm. Và tôi lại leo lên đỉnh Ngũ Phong đảnh chuông. Những mong tiếng chuông sẽ giúp tôi... Nhưng khi vừa dâng hương xong ở ngôi đền, tôi bước ra khỏi cửa, bỗng nhiên tôi nghe rõ từng âm thanh truyền vọng từ trên núi xuống. Tiếng chuông đều đặn điểm hồi đang lan vào sương sớm. Tiếng chuông đồng Ngũ Phong ai đảnh mà tựa như mây trôi, nước chảy, du dương như nhạc thiền; âm thanh của nó nghe vừa tao nhã thoát tục, vừa phiêu lãng bồng bềnh thật diệu ky,ì giúp tôi hóa giải những bí ẩn của giấc mơ gặp tiên...
Tôi không dám cổ xúy về những cơ duyên linh ứng ngay trong cả ý niệm. Nhưng rõ ràng kể từ hôm người Huế dâng lễ tri ân lên nàng Công chúa nhà Trần năm xưa đi mở đất, tôi đã chứng và nghe nhiều người nhắn nhủ với nhau lên núi Ngũ Phong đảnh chuông; cứ dựa theo lời cổ nhân đã dạy: trai bảy, gái chín tiếng tùy tâm mà đảnh. Dẫu ai đó có vô thần, vô thánh thì đấy cũng là nhạc điệu âm thanh do Ngũ hành và Con Người tạo nên.
Một buổi chiều đầu tháng tư này tôi lại lên núi Ngũ Phong. Tôi gặp ở đây một đôi bạn trẻ đang cầu nguyện phước lành. Họ nói với tôi rằng chàng trai theo đạo Phật, cô gái chịu lễ nhà thờ Thiên Chúa. Họ yêu nhau đã mấy năm và lần này lên Ngũ Phong để rồi quyết định, tuần sau “chúng cháu cưới”. Và trước khi xuống núi, họ cùng nhau đảnh một hồi chuông dài...
Nhìn đôi trẻ “hoan hỉ như vừa được giải thoát”, tôi cứ nghĩ hoài. Thì ra, tiếng chuông trên núi Ngũ Phong giờ đây không chỉ là thanh âm siêu niệm tri ân Công chúa Huyền Trân; tiếng chuông mang thông điệp của người Việt Nam yêu chuộng tự do hòa bình gửi đến toàn nhân loại; mà nó còn là tiếng chuông chúc phúc tình yêu đôi lứa trọn đời chung thủy; tiếng chuông “gõ cửa” đưa tâm hồn Con Người đi vào một cõi hướng thiện thật bình an và Vô ngã....
Dương Phước Thu