Nguyên nhân dẫn đến tình trạng này được xác định là do nguồn nước bị ô nhiễm, một số nơi thả nuôi tôm một thời gian ngắn bị nhiễm bệnh và chết; hoặc sản lượng thấp nên nhiều hộ nuôi tôm ngưng nuôi hoặc chỉ nuôi cầm chừng ở diện tích nhỏ. Con số tại báo cáo tình hình kinh tế - xã hội 8 tháng đầu năm của UBND tỉnh cũng cho hay, sản lượng nuôi trồng ước đạt 8.326 tấn, giảm 11,63%.
Liên quan đến vấn đề này, tại phiên chất vấn và trả lời chất vấn Kỳ họp thứ 2, HĐND tỉnh khóa VII, theo ông Phan Văn Thông, Giám đốc Sở Tài nguyên – Môi trường, qua kiểm tra các đơn vị có khối lượng xả thải lớn ra biển – nhất là từ các cơ sở chăn nuôi của các nhóm hộ, gia đình – thì nguy cơ đến từ các nhóm yếu tố xả thải có chứa ni – tơ và phốt – pho, ảnh hưởng đến phú dưỡng môi trường và phát sinh tảo độc; do bùn thải có chứa phân từ thủy sản nuôi; thức ăn dư thừa và các chất tồn dư trong nuôi trồng như sắt 3+, nhôm 3+. Cũng theo ông Thông, hiện ngoại trừ các cơ sở lớn đều có hệ thống xử lý nước thải, bùn thải, việc đầu tư này ở các hộ, nhóm hộ gia đình trong nuôi trồng hầu như không có...
Vấn đề nằm ở chỗ đây không phải là phát hiện mới và là hiện trạng ảnh hưởng đến sản xuất, thu mua cũng như hiệu quả nuôi trồng trong nhiều năm trở lại. Việc phát triển nóng vùng nuôi tôm trong khi chưa đầu tư hệ thống xử lý nước thải, chất thải trong quá trình nuôi trồng không những tác động tiêu cực trở lại đối với người nuôi tôm, vùng nuôi tôm mà còn ảnh hưởng đến cảnh quan môi trường; đồng thời cho thấy một hướng đi không bền vững ở lĩnh vực này. Từ việc chững lại đến thu hẹp về diện tích, sụt giảm số lượng, giá cả, thị trường cũng như phụ thuộc vào các hộ thu mua trôi nổi cũng là vấn đề đã được nhìn nhận, song việc cải thiện nó đến đâu, như thế nào vẫn còn phải dựa vào tuyên truyền để thay đổi nhận thức của người nuôi trồng, bên cạnh đó là việc tăng cường kiểm tra, giám sát của các cơ quan có chức năng.
Thực ra thì người nuôi trồng cũng đã có phần thức tỉnh trước những gì mà mình phải trả giá và đã trả giá trong quá trình sản xuất. Với họ, đó cũng là một bài học quá đắt. Tuy nhiên, để đến khi người dân phải tự trả giá mới có sự thay đổi không phải là thành công từ phương diện quản lý. Sự mạnh mẽ ngay từ đầu, với những đòi hỏi, thẩm định, giám sát tốt hơn để thực thi các tiêu chí cần và đủ cho một cơ sở đến một vùng nuôi trồng ngay trước khi vụ mùa bắt đầu có thể được cho là khắt khe, nhưng nó sẽ thực sự mang đến hiệu quả dài lâu cả về chất lượng, hiệu quả từ nuôi tôm cũng như cho cả hệ sinh thái của những vùng nuôi tôm. Đó là yêu cầu của việc quản lý từ gốc.
Dẫu sao thì người và vùng nuôi tôm vẫn đang cần một “cơ chế” cho việc sửa lỗi. Vấn đề lại cũng nằm ở chỗ, cần phải có những chuyển động đồng bộ, hỗ trợ đồng bộ và giám sát, kiểm tra đồng bộ để thay đổi dần một phương thức nuôi trồng thiếu bền vững và tư tưởng “được ăn cả, ngã về không”
Minh Hà