Thế giới

Hạn chế thương mại làm bùng phát cuộc khủng hoảng lương thực tồi tệ nhất thập kỷ

ClockChủ Nhật, 10/07/2022 18:10
TTH.VN - Cuộc khủng hoảng lương thực toàn cầu tồi tệ nhất trong một thập kỷ là một trong những vấn đề hàng đầu được thảo luận trong cuộc họp cấp bộ trưởng lần thứ 12 của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) vào tháng trước.

Ngân hàng Thế giới: Một cuộc khủng hoảng lương thực toàn cầu mới đang hình thành

Những kệ hàng trống rỗng trong một siêu thị ở Frankfurt - Đức do thiếu nguồn cung hàng hoá. Ảnh: THX/TTXVN

Cuộc khủng hoảng trở nên tồi tệ hơn do ngày càng có nhiều quốc gia cấm hoặc hạn chế xuất khẩu lúa mì và các mặt hàng khác, với lí do được cho là để ổn định giá cả trong nước. Tuy nhiên, theo nhiều nhà kinh tế, những hành động này đang phản tác dụng, và chúng cần được tạm dừng và đảo ngược.

Giá lúa mì, một mặt hàng chủ lực ở nhiều nước đang phát triển, đã tăng 34% kể từ khi xảy ra xung đột ở Ukraine. Chi phí các loại thực phẩm khác cũng tăng lên. Phản ứng với tình hình này, tính đến đầu tháng 6, đã có 34 quốc gia áp dụng các biện pháp hạn chế đối với xuất khẩu thực phẩm và phân bón – gần bằng con số 36 quốc gia đã sử dụng các biện pháp tương tự trong cuộc khủng hoảng lương thực giai đoạn 2008-2012.

Theo Ngân hàng Thế giới, những hành động này đang làm giảm nguồn cung toàn cầu, khiến giá lương thực tăng cao hơn nữa. Điều này khiến các quốc gia khác phản ứng bằng cách áp đặt các hạn chế của riêng mình, thúc đẩy chu kỳ leo thang của các hành động thương mại có tác động cấp số nhân lên giá cả.

Thực tế, mọi người dân đều bị ảnh hưởng bởi lạm phát giá lương thực, nhưng người nghèo là đối tượng bị ảnh hưởng nặng nề nhất, đặc biệt là ở các nước đang phát triển, nơi lương thực chiếm tới một nửa chi tiêu của một gia đình thông thường. Hơn nữa, các nước đang phát triển đặc biệt dễ bị tổn thương vì có xu hướng trở thành nước nhập khẩu ròng thực phẩm. Lịch sử đã cho thấy những tác động nghiêm trọng khi thực phẩm trở nên khan hiếm hoặc không thể mua được đối với những người nghèo nhất. Ví dụ, cuộc khủng hoảng lương thực năm 2008 đã làm gia tăng đáng kể tình trạng suy dinh dưỡng, đặc biệt là ở trẻ em. Một số nghiên cứu cho thấy tỷ lệ bỏ học lên tới 50% ở trẻ em từ các hộ gia đình nghèo nhất.

Các hành động hạn chế xuất khẩu đã ảnh hưởng đáng kể đến giá lương thực trong cuộc khủng hoảng năm 2008, khiến vấn đề trở nên tồi tệ hơn. Nghiên cứu chỉ ra rằng nếu các nhà xuất khẩu không áp đặt các hạn chế, giá trung bình sẽ thấp hơn 13%.

Lần này, xung đột ở Ukraine đang đẩy nhanh một đợt tăng giá do thời tiết không thuận lợi ở các nước sản xuất chủ chốt, do sự phục hồi kinh tế nhanh chóng sau cuộc suy thoái do COVID-19 gây ra, và do chi phí năng lượng và phân bón ngày càng tăng. Xung đột đã làm gián đoạn nghiêm trọng các chuyến hàng từ Ukraine, một trong những nhà cung cấp thực phẩm lớn nhất thế giới. Nước này cũng là nhà cung cấp chính các loại nguyên liệu để làm dầu ăn – bao gồm ngô, lúa mạch và hạt hướng dương, nhưng những mặt hàng này không thể tiếp cận được thị trường thế giới vì các cảng của Ukraine bị phong tỏa.

Hiệu ứng cấp số nhân

Tình hình này đã kéo theo những hiệu ứng cấp số nhân, khi các hạn chế thương mại đơn phương đã thúc đẩy hoạt động chính sách bổ sung và đẩy giá cả lên cao hơn nữa. Vào tháng 3, Nga - nhà xuất khẩu lúa mì số 2 thế giới với thị phần 17,5% theo khối lượng, đã công bố lệnh cấm tạm thời đối với xuất khẩu lúa mì và các loại ngũ cốc khác. Tiếp đến là các nhà xuất khẩu nhỏ hơn như Kazakhstan và Turkiye. Tính đến đầu tháng 6, khoảng 22 quốc gia đã áp đặt các hạn chế đối với xuất khẩu lúa mì, chiếm 21% kim ngạch thương mại ngũ cốc trên thế giới. Những hạn chế này đã khiến giá lúa mì tăng đến 9%.

Nằm trong số các nền kinh tế bị ảnh hưởng nặng nề nhất bởi các hạn chế thương mại là các nước đang phát triển ở châu Phi, châu Á, Mỹ Latinh và Trung Đông. Bangladesh nhập khẩu 41% lượng lúa mì mà nước này tiêu thụ từ khu vực Biển Đen. Đối với Cộng hòa Congo, con số này là 67% và ở Lebanon là 86%. Với mức độ phụ thuộc cao, người dân các nước này có thể ngay lập tức gặp khó khăn khi không có sẵn các nhà cung cấp thay thế trong thời gian tới. Giá cả tăng cao rồi sẽ tạo động lực cho các nhà xuất khẩu nông sản lớn mở rộng sản xuất và thay thế một số mặt hàng xuất khẩu từ khu vực Biển Đen, nhưng điều đó sẽ phải mất khá nhiều thời gian.

Trước bối cảnh đó, đại diện từ hơn 100 quốc gia thành viên WTO trong cuộc họp tháng trước đã thống nhất thực hiện một bước đi quan trọng đầu tiên: đẩy mạnh nỗ lực tạo thuận lợi cho thương mại các sản phẩm nông nghiệp và thực phẩm, bao gồm ngũ cốc và phân bón, đồng thời tái khẳng định tầm quan trọng của việc kìm hãm các hạn chế xuất khẩu. Ngoài ra, Nhóm G7 - bao gồm các nhà xuất khẩu lương thực lớn như Canada, EU và Mỹ - cũng đã cam kết tránh các lệnh cấm xuất khẩu và các biện pháp hạn chế thương mại khác. 

Theo Chủ tịch Ngân hàng Thế giới David Malpass, để xoa dịu cuộc khủng hoảng lương thực, vấn đề cấp bách là tất cả các hạn chế thương mại liên quan đến lương thực được áp đặt kể từ đầu năm phải được dỡ bỏ càng nhanh càng tốt. Xung đột ở Ukraine đã tạo thêm những khó khăn cho những người dễ bị tổn thương nhất ở khắp mọi nơi. Do đó, cộng đồng toàn cầu có nhiệm vụ hợp tác toàn diện để mở rộng dòng chảy lương thực trên toàn thế giới.

TỐ QUYÊN (Lược dịch từ World Bank)

ĐÁNH GIÁ
Hãy trở thành người đầu tiên đánh giá cho bài viết này!
  Ý kiến bình luận

BẠN CÓ THỂ QUAN TÂM

Mở cửa thương mại toàn cầu để nuôi sống thế giới

Tổng Giám đốc Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) Ngozi Okonjo-Iweala cho biết, tình trạng đói nghèo toàn cầu sẽ gia tăng nếu thế giới không nỗ lực duy trì một hệ thống thương mại ổn định và cởi mở.

Mở cửa thương mại toàn cầu để nuôi sống thế giới
WB nhận được cam kết hơn 11 tỷ USD để ứng phó với khí hậu và thách thức toàn cầu

Ngân hàng Thế giới (WB) vừa cho biết 11 quốc gia đã cam kết đóng góp hơn 11 tỷ USD cho các công cụ vốn kết hợp và bảo lãnh danh mục đầu tư mới, được thiết kế để mở rộng năng lực cho vay của WB thêm 70 tỷ USD trong một thập kỷ, nhằm giải quyết các vấn đề biến đổi khí hậu, đại dịch và các thách thức toàn cầu khác.

WB nhận được cam kết hơn 11 tỷ USD để ứng phó với khí hậu và thách thức toàn cầu
Return to top