ClockThứ Tư, 18/11/2015 15:32

“Hải Môn Ca”, bài thơ chữ Nôm về các cửa biển xứ Đàng Trong

TTH - Hải môn ca là bài thơ lục bát bằng chữ Nôm, khuyết danh, phiên trích trong sách Thông quốc duyên cách hải chữ, bản chép tay của Viện Khảo cổ Sài Gòn (số ký hiệu VĐ4, tờ 37a-39a). Bài thơ gồm 48 câu, mô tả lại hành trình của các lái buôn ghe bầu từ Bố Chính (Quảng Bình nay) đến Cao Miên). Năm 1964, GS Bửu Cầm có dịch và chú thích bài Hải môn ca in trên Văn hóa nguyệt san (bộ mới), tập XIII, quyển 9 (tháng 9/1964) do Nha Văn hóa-Bộ Quốc gia Giáo dục (Sài Gòn) xuất bản. Năm 1972, trong Văn học Nam Hà (Nxb Lửa Thiêng, Sài Gòn), Nguyễn Văn Sâm có ghi lại bài này cùng với các chú thích của Bửu Cầm. Năm 1974, cuốn sách được tái bản.
 

Khung cảnh cửa Tư Dung

Theo các nhà nghiên cứu, trong bài thơ này có nhiều chỗ chép nhầm về địa danh hoặc sai cả luật lục bát. Tuy nhiên, đây vẫn là tài liệu có giá trị về lịch sử, địa lý, văn hóa, nhất là trong việc cung cấp các địa danh lịch sử, địa danh dân gian. Nó có nét gần gũi như các bài Vè Các lái, đặc biệt là Vè Lái vô của dân ghe bầu miền Trung vào khoảng thế kỷ XVI đến năm 1945. Qua bài thơ, có thể thấy được sự giao thương kinh tế giữa các vùng miền ngày xưa khá nhộn nhịp, thậm chí các thương lái Việt Nam còn buôn bán sang tận xứ Cao Miên.

Bài thơ bắt đầu nhắc đến địa danh sông Gianh và cửa biển Thuận Cô, Nhật Lệ: “La Hà xuống ngọn sông Gianh/ Phỏng bán nhật trình vượt đến Thuận Cô… Một thôi đến Nhật Lệ môn”. Sông Gianh, con sông lớn nhất Quảng Bình từ 1672, là ranh giới Đàng Trong, Đàng Ngoài. Nhật Lệ ngày xưa là cửa biển lớn, nhà Nguyễn cho chôn cọc và giăng lưới sắt để phòng quân Trịnh đánh xuống phía Nam.

Rồi đến Quảng Trị, bài thơ nhắc đến cửa Minh Linh là cửa Tùng, cửa sông Bến Hải, ranh giới vĩ tuyến 17 (Minh Linh cửa ấy sắt chôn làm hàn); rồi đã nhắc đến cửa Việt: “Một ngày trải khắp giang san/ Đến miền cửa Việt sắt hàn hiểm sao”. Cửa Việt nguyên là An Việt hải môn, được đổi tên là Việt An từ năm Minh Mạng thứ nhất (1820). Đây là cửa sông Thạch Hãn. Thời Trịnh Nguyễn phân tranh, cửa Việt được “hàn sắt” (giăng dây sắt) để phòng thủ.

Đà Nẵng Hải Khẩu (cửa Hàn) trên Cửu Đỉnh

Đến Thừa Thiên Huế, bài thơ nhắc đến những cửa biển nổi tiếng:

“Một ngày lại đến cửa Eo

Cửa Hàn ngăn sắt sóng reo đầy rầy

Đến Tư Khách cũng một ngày

Một cảnh vượt thủy ngày này Cảnh Dương…”

Cửa Eo tức là cửa Yêu, tên định danh từ thời Lê. Cửa này còn có các tên khác là Hải Nhuyễn, Hải Noãn, đến năm Gia Long thứ 13 (1814) mới được đổi tên là Thuận An (thuộc Phú Vang ngày nay).

Cửa Tư Khách tức là cửa Tư Hiền (huyện Phú Lộc), dân gian thường gọi là cửa Mù U, cửa Bạc Thái, cửa Biện, cửa Ong. Cửa biển này thời Lý có tên là Ô Long; đời Trần Anh Tông có tên là Tư Dung. Tư Khách là tên có từ thời Mạc (do kỵ húy tên Mạc Đăng Dung), năm 1841 (năm Thiệu Trị thứ nhất) mới được đổi tên là Tư Hiền.

Cứ thế, qua Đà Nẵng thì “Đà Nẵng cửa đặt tuần ty”, là nhắc đến chuyện các đời Gia Long, Minh Mạng, Đà Nẵng được làm bố phòng, xây cất kiên cố. Năm Minh Mạng thứ 17, cửa biển này được vua cho khắc trên Cửu Đỉnh.

Rồi qua “Đại Chiêm cửa ấy phỏng đi một ngày”, là nhắc đến cửa Đại ở Hội An ngày nay. Ngay từ thế kỷ 16, chúa Nguyễn đã buôn bán với nước ngoài qua cửa biển này.

Xuống Quảng Nam là “Hiệp Hòa bên nọ, này đây An Hòa”, là nhắc đến Hòa Hiệp hải khẩu, nơi hai con sông Tam Kỳ và Trường Giang đổ ra biển.

Quảng Ngãi có nhiều cửa được nhắc đến: Châu Ô (Thái Cần hải khẩu); Sa Trạm (Sa Kỳ) là một trong mười danh thắng tiêu biểu; Tiểu Hải; Đại Nham (Đại hải khẩu), còn gọi là cửa Đại Cổ Lũy, nơi hai con sông Trà Khúc và sông Vệ đổ về, nơi đây có thôn Cổ Lũy nổi tiếng, gọi là danh thắng Cổ Lũy Cô thôn, xưa có đồn phòng thủ kiên cố của người Chăm; Mộ Hoa (thuộc Mộ Đức); Mỹ Á (Mỹ Ý), xưa gọi là Ma Ác môn; Bồng Sơn; Sa Huỳnh, nơi có đồng muối và di chỉ văn hóa Sa Huỳnh nổi tiếng...

Qua Bình Định, bài thơ nhắc đến các địa danh: Thời Phú; Nước Ngọt; Nước Mặn, là thương cảng buôn bán rất sầm uất với nhiều nước phương Tây từ thế kỷ 17.

Qua Phú Yên có: Cù Mông là một trong 6 cửa biển được nhà Nguyễn đặt tại Phú Yên, cửa này sát đầm Cù Mông còn gọi là vũng Mồi, nổi tiếng nuôi trồng thủy sản; Xuân Đài (Tuy An); Mây Nước (Tuy Hòa); Đà Nông (cửa sông Bàn Thạch).

Qua Khánh Hòa có Nha Lỗ (Nha Phu, Nha Du…); Nha Trang (cửa Lớn) nổi tiếng cảnh đẹp; Tiểu Nha Trang (cửa Bé) nổi danh nước mắm ngon; Cam Ranh (Cam Linh, Cam Lân, Cam Hồ…).

Qua Phan Rang có cửa Man Rang, cửa biển thuộc Ninh Thuận, người Chăm gọi là Krong Pong hay Krong Pinh.

Đến Bình Thuận có cửa Man Rí (thuộc thị trấn Phan Rí Cửa), nước sông Lũy đổ ra; Phố Hải (thành phố Phan Thiết); cửa Cạn – Thiển Môn hải khẩu; Ma Ly (Hàm Thuận Nam).

Về Biên Hòa có Xích Lam, nhận nước từ sông Ray, sông dài nhất tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu. Đây là đầu cầu tiếp nhận vũ khí từ những chuyến tàu không số khi ta mở đường Hồ Chí Minh trên biển trong kháng chiến chống Mỹ.

Cửa nhắc đến cuối cùng là cửa Lộn, tức Nước Lộn hải môn, thuộc xứ Đồng Nai.

“Hải Môn Ca” - bài thơ Nôm chân chất của người đi biển năm xưa, không diễm từ nhuyễn ngữ nhưng từ cái dung dị đó, lòng yêu đất nước, biển đảo quê hương hiện lên, nồng nàn, sâu lắng vô cùng.

Võ Triều Sơn
ĐÁNH GIÁ
Hãy trở thành người đầu tiên đánh giá cho bài viết này!
  Ý kiến bình luận

BẠN CÓ THỂ QUAN TÂM

Trong nỗi hoài vọng cố hương

Nhà thơ Triệu Nguyên Phong quê ở Triệu Phong, Quảng Trị, nhưng ông sinh ra và lớn lên tại Thừa Thiên Huế. Ông cũng là hội viên Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế. Cuối năm 2023, nhà thơ Triệu Nguyên Phong vừa ra mắt độc giả tập thơ thứ bảy của mình “Theo bóng ta về”, do NXB Thuận Hóa ấn hành. Các tập thơ trước đó gồm: “Say đắng” (2005), Nắng và mưa (2006), Ta và bóng (2009), Rơm rạ chiều quê (2011), Ngược dòng trăng (2013), Ta tìm ta giữa đời (2017).

Trong nỗi hoài vọng cố hương
“Giáo dục di sản”- học mà chơi, chơi mà học

Vui vẻ, hào hứng, bổ ích là những cảm nhận của những “du khách học trò” sau khi tham gia chương trình “Giáo dục di sản” (GDDS) do Bảo tàng Cổ vật cung đình (CVCĐ) Huế tổ chức.

“Giáo dục di sản”- học mà chơi, chơi mà học
Xe không chỉ để đi

Nghe chồng bảo sắm ô tô, chị ngơ ngác, mồm mắt tròn xoe, giọng như hụt hơi: “Đi đâu mà mua xe?”. Anh cười, cái đầu húi cua lắc nhẹ, vẻ khó hiểu cùng lời nghi vấn cao ngạo: “Sao hỏi ngớ ngẩn thế?”. Nói rồi, anh đưa mắt nhìn con đường trước nhà, với dãy ô tô nối dài, tít đến đằng xa.

Xe không chỉ để đi
Tự hào quốc hiệu Việt Nam

“Quốc hiệu Việt Nam là tài sản tinh thần vô giá và linh thiêng của dân tộc Việt Nam, là niềm tự hào của mỗi người dân nước Việt. Từ trong sâu thẳm tâm thức của mình, tôi tự hào là người Việt Nam”, nhà nghiên cứu Huế Dương Phước Thu đã chia sẻ như thế nhân kỷ niệm 220 năm quốc hiệu Việt Nam.

Tự hào quốc hiệu Việt Nam
Phát động ủng hộ Quỹ Bảo tồn Di sản

Ngày 4/5, Trường Cao đẳng (CĐ) Huế tổ chức Hội nghị quán triệt Chỉ thị 42-CT/TU của Tỉnh ủy, thông tin về “Định hướng xây dựng, phát triển Thừa Thiên Huế đến 2030, tầm nhìn đến năm 2045” và phát động ủng hộ Quỹ Bảo tồn Di sản Huế.

Phát động ủng hộ Quỹ Bảo tồn Di sản
Return to top