ClockThứ Năm, 15/05/2014 05:23

Một “Hồi ký song đôi” chân thực & sinh động

TTH - (Đọc “Chúng tôi đã sống như thế” của PGS.TS Nguyễn Ánh Tuyết, NXB Tri thức, 4/2013)

Có lẽ nhiều bạn đọc chưa biết tác giả Nguyễn Ánh Tuyết chính là phu nhân của nhạc sĩ Phạm Tuyên một chuyên gia đầu ngành về giáo dục mầm non, với hàng chục công trình nghiên cứu đã được xuất bản.

Trong “Lời giới thiệu”, nhà thơ Trần Đăng Khoa cho rằng, đây là một “cuốn sách đặc biệt”; cũng có thể gọi đây là “hồi ký song đôi”, do Ánh Tuyết đã dành rất nhiều trang “viết thay” cho Phạm Tuyên. Bản thân cuộc đời tác giả (1936-2009), xuất thân từ một gia đình “cách mạng nòi” ở Quảng Bình, lại về làm dâu quan Thượng thư Phạm Quỳnh với án tử tháng 8-1945 tại Huế, hơn 60 năm qua vẫn đang chờ “lịch sử đánh giá” (*) một cách chính thức, công bình. Rồi những cuộc “trường chinh” từ chiến khu “Bình Trị Thiên khói lửa” đến các trung tâm đào tạo nhân tài (Trường Phan Đình Phùng - Hà Tĩnh, Khu học xá Nam Ninh - Trung Quốc, Viện Hàn lâm Khoa học Giáo dục - Liên Xô) để không ngừng bổ sung kiến thức, trở thành nhà giáo mẫu mực cho hầu hết cán bộ đầu ngành giáo dục mầm non của đất nước trong mấy chục năm qua, đã là một thiên tiểu thuyết có đủ mọi cung bậc tình cảm, gợi nghĩ đến rất nhiều vấn đề có ý nghĩa lâu dài. Đó là truyền thống gia đình, là thái độ của người lãnh đạo đối với trí thức, là quan niệm về giáo dục tuổi mầm non…

Một lần, Trường Nguyễn Ái Quốc mời Nguyễn Ánh Tuyết đến nói chuyện về tâm lý trẻ em. Sau chút ái ngại, tác giả đã “phủ đầu” bằng một câu đầy ấn tượng: “Có ba thảm họa mà thế giới loài người ngày nay đang hết sức sợ hãi, đó là thiên tai, chiến tranh và … trẻ em hư!”. Thính giả đã bị thuyết phục khi chị phân tích việc giáo dục trẻ em không phải là chuyện “đàn bà con trẻ” mà chính là “chiến lược con người”.

Nếu những trang viết trong chương “Đường vào khoa học” thể hiện rõ nét chân dung một trí thức có ý chí mạnh mẽ, luôn thao thức, trăn trở vì sự nghiệp chung, thì phần ghi lại cuộc đời và hoạt động âm nhạc của Phạm Tuyên là một “biên niên” đầy đủ và sinh động nhất quá trình sinh thành, phổ biến cùng những “dư âm” 700 ca khúc của ông, trong đó có những bài đứng vào hàng đầu các bài hát hay nhất cũng là tác phẩm được phổ biến rộng rãi nhất và có tuổi thọ cao nhất về nhiều đề tài quan trọng, từ bài hát “Tiến lên đoàn viên” (viết từ năm 1954) và “Chiếc đèn ông sao” (đề tài thiếu nhi) cho đến các bài hát về lịch sử, đất nước như “Đảng đã cho tôi sáng mắt sáng lòng”“Đảng đã cho ta cả một mùa xuân”, “Chiếc gậy Trường Sơn”, “Như có Bác Hồ trong ngày vui đại thắng”…

Lý giải việc một nghệ sĩ có hoàn cảnh gia đình “đặc biệt” như Phạm Tuyên vẫn sáng tác được nhiều ca khúc hay như thế, Ánh Tuyết viết: “… chính là anh đã xác định cho mình một lẽ sống cao đẹp mà suốt đời anh nguyện đi theo.” Cũng thật là đặc biệt, một nhà khoa học về tâm lý giáo dục lại có không ít trang viết phân tích về nghệ thuật âm nhạc thấu đáo; đó là chưa nói đến lợi thế “người nhà”, được sống gần gũi bên nhạc sĩ, tác giả đã chứng kiến những thời khắc người nghệ sĩ rung động viết nên các tác phẩm để đời.

“…Nhớ lại đúng vào thời điểm 21h30 đêm 28/4/1975, khi nghe bản tin thời sự loan báo Nguyễn Thành Trung, một trung úy phi công “ngụy” đã ném bom vào sân bay Tân Sơn Nhất, một niềm xúc động dâng trào với linh cảm là chẳng bao lâu nữa thôi thì Sài Gòn và cả miền Nam sẽ được giải phóng. Đêm hôm ấy, tôi thấy anh bồi hồi khác thường, trên tay cầm mẩu giấy và chiếc bút chì ra đứng đầu cầu thang, nơi đó có một bóng đèn chiếu sáng, ngoài trời lâm thâm mưa. Anh cứ đứng đó ghi xong cả giai điệu và lời ca của bài hát Như có Bác Hồ trong ngày vui đại thắng để không phá giấc ngủ của vợ con (vì nhà rất chật)… Bài hát được sáng tác trong một khoảnh khắc ngắn ngủi vào cái đêm 28-4-1975, nhưng nói cho chính xác thì nó được sinh ra từ khoảnh khắc đó cộng với cả cuộc đời anh…”. (Tr.260)

Một điều cũng rất đáng kể là hồi ký của Nguyễn Ánh Tuyết không né tránh những sự thật nghiệt ngã, không chỉ của “cụ Phạm” mà cả người anh trai - Nguyễn Thanh Huyên (bút danh Nguyễn Kiến Giang. Từ 19 tuổi, anh đã là bí thư huyện Lệ Thủy, sau 1954, trở thành một nhà nghiên cứu lý luận đầy triển vọng, được cử làm Phó Tổng biên tập NXB Sự thật, nhưng vì mạnh dạn nêu những vấn đề mới, bị xem là “trái chiều”, anh đã “mất hết”!…

Thật đáng quý, là mặc dù những người thân của tác giả bị vướng vào hoàn cảnh thật oái oăm, những trang sách của chị không hề có một dòng trách móc hay giận hờn, mà luôn tràn đầy niềm tin yêu trong trẻo và cả vẻ đẹp của sự hồn nhiên, ngây thơ của trẻ nhỏ như hầu hết những bài hát của Phạm Tuyên. Có lẽ chính là sự trùng hợp đó đã gắn kết hai con người xuất thân từ hai đối cực suốt hơn nửa thế kỷ và Nguyễn Ánh Tuyết có thể “viết thay” hồi ký cho chồng bắt đầu từ “lễ cưới vàng” tổ chức vào mùa xuân 2007, những trang viết chân thật, sinh động đến mức chính nhạc sĩ Phạm Tuyên đã phải thốt lên: “… Nhiều bài mình viết xong rồi quên. Thế mà bà ấy nhớ. Nhớ rồi ghi chép rất tỉ mỉ! Mình đọc cảm động quá!” Hẳn là vì thế mà nhà thơ Trần Đăng Khoa đã viết: “Tôi tin, rất tin cuốn sách sẽ làm bạn đọc yêu thích” .


Sau vụ án xử Cụ Phạm, khi gặp hai người chị của Phạm Tuyên tại Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Cụ Phạm là người của lịch sử, rồi sẽ được lịch sử đánh giá lại”. Những năm gần đây, nhiều tác phẩm của Cụ Phạm đã được tái bản, không ít nhà nghiên cứu đã đánh giá cao những đóng góp của Phạm Quỳnh đối với văn hoá dân tộc, nhưng cũng có ý kiến trái chiều… Những chữ in nghiêng trong bài đều trích từ tác phẩm của Nguyễn Ánh Tuyết.

Nguyễn Khắc Phê
ĐÁNH GIÁ
Hãy trở thành người đầu tiên đánh giá cho bài viết này!
  Ý kiến bình luận

BẠN CÓ THỂ QUAN TÂM

“Không Không Kó Không” và tiếng nói tuổi trẻ

Triển lãm Mỹ thuật trẻ 2024 vừa diễn ra tại Trường đại học Nghệ thuật thu hút được rất nhiều sự chú ý của các họa sĩ trẻ và người yêu nghệ thuật với nhiều tác phẩm mới lạ. Giữa những tác phẩm đầy màu sắc, “Không Không Kó Không” của Hoàng Thanh Khiêm là một tác phẩm sắp đặt khá nổi bật, và càng đáng chú ý hơn nữa khi tác giả là một chàng trai trẻ sinh năm 2009.

“Không Không Kó Không” và tiếng nói tuổi trẻ
220 năm quốc hiệu Việt Nam

“220 năm quốc hiệu Việt Nam – những chặng đường lịch sử (1804-2024)” là chủ đề cuộc hội thảo khoa học do Hội Khoa học Lịch sử tỉnh tổ chức, diễn ra sáng 23/4 tại TP. Huế.

220 năm quốc hiệu Việt Nam
Return to top