|
Sông nước Tam Giang |
Miền quê mới ven phá Tam Giang
Khi phá Tam Giang chưa cạn, người Việt sớm khai canh vùng triền đồi trung du nằm giữa sông Ô Lâu và sông Bồ với nhiều làng cổ định hình nên huyện Đan Điền (ruộng màu đỏ) từ thời Trần - Lê. Khi phá Tam Giang cạn, nhu cầu mở mang xứ sở, các làng gốc phát triển thêm các làng ngọn vệ tinh về phía đông theo lối “thiển vi nông, thâm vi ngư” (cạn làm nông, sâu làm ngư).
Trong một chuyến bôn tẩu trên phá Tam Giang, quân chúa Nguyễn bị đứt quai chèo, quân thù đuổi rất gấp và gặp thuyền của Bà Tơ. Bà đã dâng lên những sợi tơ lụa/tay lưới để bện quai chèo, nhờ đó nhà chúa thoát hiểm. Về sau, chúa ban thưởng cho cô/họ Trần/làng Bác Vọng quyền chiếm hữu một phần vùng đầm phá, từ đầm Nịu/Niễu/Hà Lạc về đến Trộ Bã Mía (nơi thuyền chúa dừng lại, ăn mía, vứt lại bã, hay truyền tích dùng quả bưởi thả trôi để xác định ranh giới), vùng phía nam làng Hà Đồ hiện nay, sát với thủy vực của làng Thủy Tú. Nhờ đặc ân đó, làng Bác Vọng đã tiếp nhận ngư trường Tam Giang và hình thành nên Hà Đồ, Hà Lạc.
Trước đây, làng từng lưu giữ hai thẻ quan bài bằng vàng hình quả tim và 5 điệu sắc của triều đình phong tặng cho Bà. Để tưởng nhớ công ơn của Bà, làng tổ chức thờ cúng trọng thể trong các ngày 11 - 12/1 và ngày giỗ 18/5 ÂL. Miếu Bà Tơ là di tích hiếm hoi còn sót lại trên tổng số 25 di tích ở làng Bác Vọng Đông (A. Chapuis, “Les lieux de culte du village de Bac-Vong-Dong”, B.A.V.H, N04, 1932:372). Dù kiến trúc có vẻ hoang phế nhưng ngôi miếu đã có ảnh hưởng rất lớn, các bậc cao niên vẫn nhớ sự tích miếu Bà Tơ và lễ hội đua trải, lễ hội cầu ngư mà trước đây làng thường xuyên tổ chức. Tinh thần đó được thể hiện rõ trong bài vị thờ Bà: “Quốc Tỷ Thánh Mẫu nương nương trận tiến công huân, sắc phong Trai Tĩnh thần vị”, với hai cặp câu đối: “Một sợi tơ đền gây công lớn/Đông Tây Đồ Lạc hưởng ơn sâu; hay Mặt nước hưởng nhờ ơn vũ lộ/ Dây tơ cứu khỏi trận phong ba”.
Trong bức tranh dân cư làng, xã thời chúa Nguyễn, có thể phác họa được quá trình Bác Vọng mở rộng về miền sông nước Tam Giang, gắn với truyền thống ngư nghiệp của các dòng họ Trương, họ Trần... đến định cư tại phường Hà Đồ và sự hiện diện chủ yếu của cộng đồng có truyền thống nông nghiệp với các họ Hoàng, họ Đặng..., làm nên phường Hà Lạc ở gần đầm Nịu/Cửa Lác. Đến thời Minh Mạng, toàn bộ các đơn vị “phường” ở ngoài khu vực nội thành đều được đổi thành “ấp” nên các phường Hà Đồ, Hà Lạc được gọi là ấp cho đến sau này. Cũng trong xu hướng hành chính hóa, đến năm Minh Mạng thứ XI (1830), triều đình cho đổi tên đầm vịnh Đồng thành đầm Bác Vọng, đầm vịnh Niễu [Nịu] thành đầm Hà Lạc, đầm vịnh Cọc thành An Xuân, đầm vịnh Sợi/Sịa/Sậy thành An Gia, đầm La Bích thành Thanh Lam, vịnh Hà Ông thành Mỹ Á.
Theo quy định ba cấp độ xã thời phong kiến (đại - từ trên 100 đinh, trung - từ 70 đinh, tiểu xã - từ 30 đinh), nhà Nguyễn khuyến khích sự hình thành đơn vị hành chính cơ sở để khích lệ người dân mở mang lãnh thổ, đẩy mạnh canh tác nông nghiệp, đánh bắt ngư nghiệp, giải quyết tình trạng hoang hóa, tăng nguồn lực quốc gia. Trường hợp phường - ấp Hà Đồ, Hà Lạc là một minh chứng.
Tri ân tiền nhân, chung tay xây dựng nông thôn mới
Trong cộng đồng gia tộc góp phần làm nên vùng đất mới ven bờ phá Tam Giang, hiện nay bà con vẫn còn lưu giữ được nhiều tài liệu quý giá. Ở ấp Hà Đồ, chúng tôi đã tiếp cận được tài liệu sắc phong cho ngài Khai khẩn Trương Hữu Bằng đại lang, Dực bảo Trung hưng Linh phù tôn thần và ngài Hậu Khai khẩn Trương Duy Phương đại lang, Dực bảo Trung hưng Linh phù tôn thần (18/3/Khải Định 2 - 1917)...
Đặc biệt trong đời sống tín ngưỡng của cư dân Hà Lạc, có thể thấy sự phong phú, đa dạng của các vị thần linh được thờ tại đình và hệ thống tự miếu của làng. Đứng đầu là Bà Đại Càn Hàm hoàng Quang đại Chí đức Phổ bác Hiển hóa Trang huy Dực bảo Trung hưng Tứ vị Thượng đẳng thần, Đương cảnh Thành hoàng Hắc hổ Đại vương, các ngài Khai canh Khai khẩn của họ Hoàng, họ Đặng, liệt vị hữu công của chư tộc trong làng (quý họ Hoàng Chi, Lê, Nguyễn, Trương, Hồ, Phan, Trần, Ngô, Phạm, Văn...). Hai làng tôn vinh Bà Tơ (Hà Lạc và Hà Đồ), là nữ thần Khai canh Thủy diện, lập miếu thờ Bà phía bên phải sát cạnh đình làng, bài vị tôn xưng Quốc tỷ Thánh Mẫu nương nương, Trận tiến Công huân Dực bảo Trung hưng Linh phù Trai tĩnh thần vị, cùng hai cặp câu đối mạnh công đức vô biên: Phá lãng thừa phong, phụ nhân nhi hào kiệt/Hỷ ủy Ty tuyến, nữ tử tác công thần (Đạp sóng cưỡi mây, đàn bà mà hào kiệt/Vui mừng trao tơ, phận nữ là công thần), Tiền nhân tiên tổ tôn thần thành công khai lập ấp/Hậu thế thập nhị tôn tộc hữu tâm tạo miếu từ (Tiên tổ tiền nhân hiển thần từ công lao khai mở/Mười hai họ hậu thế công đức lập miếu đền để ghi ơn).
Trong nỗ lực chung cùng toàn xã chung tay xây dựng và phát triển xã Quảng Lợi, Quảng Điền ngày càng giàu đẹp, làng Hà Lạc đang chuẩn bị khánh thành công trình tôn tạo đình làng truyền thống vào cuối tháng 8/2023. Việc thiết kế, thi công mộc nề, với tòa đình chính, miếu Bà Tơ, bình phong, Tam quan, sân, trồng cây..., đều do những người thợ là con dân Hà Lạc đảm trách. Những thành tựu về hành chính và tự quản đã thực sự giúp cộng đồng cư dân Hà Lạc gắn kết, phát huy nội lực, cùng nhau xây dựng đời sống mới hài hòa, hạnh phúc.