|
Chiếc gương đề thơ tại điện Long An
|
Sau khi vua Thiệu Trị qua đời, đây cũng là nơi quàn thi hài của vua trong tám tháng, trước khi làm lễ Ninh Lăng (đưa đi an táng). Ngoài nơi thờ chính thức trong Thế Miếu, bài vị của vua Thiệu Trị còn được đưa vào thờ tại điện Long An - nơi ông thường lui tới khi còn sống.
Khi tham quan khu trưng bày cổ vật tại điện Long An, chúng tôi ấn tượng với chiếc gương đế làm bằng gỗ được chạm trổ cầu kỳ, bên trên hình tròn khắc hai bài thơ chữ Hán theo thể thất ngôn tứ tuyệt. Một bài có đề niên hiệu và tác giả của bài thơ là vua Minh Mệnh. Theo ghi chép, bài thơ ngự chế này được khắc năm Kỷ sửu. Tuy nhiên, bài thơ lại không có tiêu đề mà chỉ có nội dung. Bài thơ này có lẽ là để phụ họa cho cảnh được khắc trên đồ vật này. Đó là cảnh người chèo thuyền trên sông và cảnh đài cao lầu các như lạc vào cõi bồng lai tiên cảnh.
Hữu lộ nhân hành an dục tốc,
Vô phong chu sử mạc hiềm trì.
Túng công tuyển nhiễm chung tu hoại,
Tuy chuyết điêu tuyên diệc khả thùy.
Dịch nghĩa:
Có đường người đi sao phải vội,
Không gió đưa thuyền chẳng chậm trễ.
Làm việc vẽ vời rồi cũng hỏng,
Tuy khắc vụng về vẫn lưu danh.
x x x
Hồng lục tằng tằng nhậm xảo thi,
Kham xưng giai thạch xuất Điền Trì.
Lâu đài kiên cố lưu thiên tải,
Thụ mộc âm sâm mậu tứ thì.
Dịch nghĩa:
Đỏ xanh lớp lớp khéo phô ra,
Đá đẹp mang danh chốn Điền Trì
Nhà cao kiên cố còn lưu mãi,
Cây cối um tùm bốn mùa xanh.
Hai bài thơ này chính là để phụ họa cho cảnh đẹp minh họa ở trên hiện vật. Bài thơ thứ nhất phụ họa cho cảnh thuyền bè tấp nập đi lại trên sông. Vì vậy, bài thơ mới có câu Không gió đưa thuyền chẳng chậm trễ.
Ở bài thơ thứ hai là ca ngợi vẻ đẹp của đài các nguy nga, xen lẫn đó là cảnh tươi tốt của cây cối bốn mùa, tạo nên một không cảnh hài hòa giữa lâu đài và cây cỏ.
Mặc dù hai bài thơ chỉ là phụ họa cho hai cảnh trên hiện vật, nhưng nó lại nói lên được cảm nhận của tác giả đối với hình ảnh đó. Cảm nhận hình ảnh qua việc đề thơ là thể tài quen thuộc của các tao nhân mặc khách xưa. Đặc biệt là trên các di tích, các danh lam thắng cảnh đẹp, các hang động, vách núi, ngọn nguồn con sông… Nhiều dấu tích xưa còn lưu lại gắn liền với di tích mà chúng ta đã được biết đến, như núi Dục Thúy, động Hồ Công, Ngũ Hành sơn, …
Thơ đề trên hiện vật được bắt gặp nhiều, có thể nhận thấy trên các loại gốm sứ, tranh vẽ, những bài thơ ấy là tiếng nói của người thưởng lãm cũng là những cảm nhận cá nhân thông qua bài thơ để nói lên suy nghĩ của mình.
Hai bài thơ đề trên hiện vật đã làm cho cảnh vật trở nên hài hòa, bố cục tinh tế và tránh được phần đơn điệu của cảnh vật. Nó còn có ý nghĩa hơn khi đây là bài thơ Ngự chế của vua Minh Mệnh, một tác giả để lại gần 4.000 bài thơ được khắc in ở nhiều tác phẩm Ngự chế. Xem cảnh bình thơ thật là thú vị, đó là cái tài của thi nhân và cũng là nét độc đáo của hiện vật này.