ClockThứ Năm, 14/01/2021 13:45

Con trâu của ký ức

TTH - Tôi không phải tuổi sửu, nhưng cả một trời tuổi thơ gắn liền với đời mục đồng. Con trâu vì thế như một phần không thể thiếu trong hoài niệm với những buồn vui, những ngày ăn nằm trên lưng trâu, phiêu linh qua các cánh đồng…

Người trẻ ăn trầu

Một đàn trâu giữa cánh đồng mùa ngập nước tìm đường về nhà sau ngày rong ruổi kiếm ăn ở ngoại ô TP. Huế

Năm nay, lịch ta rơi vào năm con trâu. Trâu được ông bà xưa liệt vào hàng đầu của lục súc có công với người, gồm: trâu, ngựa, dê, gà, chó, lợn. Tôi quyết định viết điều gì đó về con trâu đồng bằng, nơi tôi lớn lên và có những năm tháng trải nghiệm đúng nghĩa của một mục đồng.

Từ xa xưa, con trâu có vai trò vô cùng quan trọng trong việc khẩn hoang, mở rộng bờ cõi, dặm dài đất nước. Nhưng với ký ức tôi, đàn trâu “ra đời” sau khi ba mạ tôi nên vợ, nên chồng ở cái tuổi ngoài 30. Ngoại tôi khi đó nghèo, không có gì ngoài đàn trâu, thương người con gái lớn đi lấy chồng mà trong tay không có gì lận lưng, ông quyết định tặng đôi vợ chồng trẻ cặp trâu làm vốn. Con trâu từ đó trở thành “phương tiện” mưu sinh chủ lực của gia đình trẻ vừa ra riêng.

Không riêng gì gia đình tôi, đời sống nông dân lúc bây giờ vận hành theo nếp của thời trâu cày. Phần nhiều các việc liên quan đến nông nghiệp ngày đó đều dựa vào con trâu. 7 tuổi, tôi vào lớp 1, tuổi đó tôi cũng được tính tuổi đầu tiên làm kẻ mục đồng. Tôi được ba trao cho sợi dây vàm buộc mũi trâu dẫn đi ăn sau những buổi cắp sách đến trường.

Tôi không còn nhớ kỹ lắm, đàn trâu nhà tôi khi nhiều nhất là bao nhiêu, nhưng không dưới 7 con. Mỗi con được đặt tên rất thân mật. Có con tên “Ốm” vì thân hình gầy, ăn mấy chẳng mập nổi. Có con tên “Mập”, bởi đơn giản nó mập căng kè, ăn rất nhiều, từ cánh đồng cỏ cho đến những đống rơm khô ở nhà. Ban đầu, gọi tên chỉ để phân biệt, dần dần trở thành thói quen, con trâu biết nghe, vâng lời từ đó.

Trải qua thời gian, không biết từ bao giờ, những bài ca dao về trâu cũng được chúng tôi thuộc làu trước khi được học ở trường: “Trâu ơi ta bảo trâu này/Trâu ra ngoài ruộng trâu cày với ta…”, “Con trâu là đầu cơ nghiệp”, “Trên đồng cạn dưới đồng sâu/Chồng cày vợ cấy con trâu đi bừa”…

Không chỉ chăn dắt đàn trâu, 15 tuổi những đứa trẻ trong xóm như tôi được tập cầm cày. Ngày đó, khi cơ giới chưa phát triển, trâu cày phục vụ nông nghiệp có vai trò vô cùng quan trọng. Ngoài đảm nhận phần ruộng nhà xong, tôi còn cho trâu mình đi cày thuê ruộng của bà con trong làng để kiếm thêm tiền, hoặc đổi lại lấy công cấy, gặt của người ta.

Mùa gặt, con trâu đảm nhận việc kéo lúa về nhà, đạp lúa, làm sức kéo để kéo nhiều vật dụng khác. Tôi cứ nhớ câu cửa miệng để điều khiển con trâu: “tới – hò rì – hò tắc…”. Nhưng không phải con nào cũng dễ bảo, nghe lời. Có đợt, đến mùa động đực, cả bầy chạy tán loạn, từ cánh đồng này sang cánh đồng khác, từ làng xã này sang làng xã khác. Và lũ chăn trâu chúng tôi chỉ biết kêu trời trong nước mắt. Mục đồng sướng nhất vào mùa mưa lũ, khi những cánh đồng ngập chìm trong nước, thời điểm đó báo hiệu mùa thả rong. Đó là những sáng chỉ thả ra và tối nó tự tìm về mà người chăn không phải kè kè sau lưng như ngày thường.

Con trâu có vai trò vô cùng quan trọng vì thế từ cung đình cho đến dân gian đều có những nghi lễ cúng tế vào dịp Tết Nguyên đán. Dưới triều nhà Nguyễn, có lễ Nghinh xuân, với lễ vật chính là con trâu bằng đất để dâng tế nhằm cầu cho mưa thuận gió hòa, mạ xanh thóc tốt và tống tiễn khí lạnh mùa đông, đón mừng xuân mới. Nghi lễ này còn là một hình thức giáo dục truyền thống yêu lao động, nhắc nhở nhân dân chăm lo sản xuất.

Với những người nuôi trâu, cứ đến Tết tuỳ theo gia đình, sẽ có một mâm cúng ở chuồng trâu với ước nguyện cầu may mắn, bình an cho đàn trâu, có một năm bội thu, đem lại những điều tốt đẹp cho gia chủ. Mâm cúng cũng trải qua thời gian không còn cầu kỳ, nhưng vẫn giữ được những giá trị văn hoá xưa và sự thành kính của từng gia đình với các lễ phẩm như vàng mã, xôi chè, bánh tét, rượu, trái cây…

Ngày nay, rất khó để thấy được cảnh trâu cày do nền nông nghiệp hoá phát triển với máy móc phương tiện hiện đại, nhưng những nghi lễ của người nuôi trâu vẫn được các gia chủ gìn giữ. Và nó sẽ mãi là ký ức của những ai từng trải qua những năm tháng sống nhờ con trâu, rong ruổi từ cánh đồng này sang cánh đồng khác.

Riêng tôi, nhớ nhất hình ảnh con trâu ngày phải ra ràng, được bán đi cho người khác. Giọt nước mắt lăn dài trên khuôn mặt đen hiền của con trâu không biết nói năng, nhưng khiến những đứa trẻ như tôi ngày đó cũng phải khóc theo, vì thương!

PHAN THÀNH

ĐÁNH GIÁ
Hãy trở thành người đầu tiên đánh giá cho bài viết này!
  Ý kiến bình luận

BẠN CÓ THỂ QUAN TÂM

Người lính công binh và ký ức Điện Biên Phủ

70 năm trôi qua kể từ chiến thắng Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”, cựu chiến binh (CCB) Nguyễn Chí Bình vẫn nhớ như in “56 ngày đêm khoét núi, ngủ hầm, mưa dầm, cơm vắt, máu trộn bùn non”.

Người lính công binh và ký ức Điện Biên Phủ
Ký ức một thời

Cứ đến tháng Ba, tháng Tư hằng năm là những ký ức về cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước giành thắng lợi lại có dịp ùa về trong mỗi người đã một thời “vào sinh ra tử”, “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Đó là những kỷ niệm một thời đạn bom, gian khổ nhưng rất đỗi tự hào. Sự tự hào ấy của họ đã làm nên sức mạnh để góp phần giải phóng quê hương, giải phóng hoàn toàn miền Nam thống nhất đất nước ngày 30/4/1975.

Ký ức một thời
Chầm chậm tháng Ba

Tháng Ba, đôi khi mình muốn ngồi thật lâu dưới một tán cây. Những dải nắng trùng trình rọi qua vòm lá rậm, rắc mật lên bờm hoa mê mướt tím, đậu lại trên đôi cánh bầy sẻ đang mổ vào hư vô. Màu xanh ngợp đầy của lá tràn vào lồng ngực tháng Ba, như thôi thúc người ta hoài vọng về một quãng đồng mùa con gái, một cánh rừng rộng đến mộng mị, hay ấp ủ chiêm bao trong mảnh vườn tuổi nhỏ. Lứa gió đầu xuân hãy còn hây hẩy, nhu mì, nhón tay mở những cánh cửa tỉnh thức, thả bầy ý nghĩ đi rong. Giữa quãng vắng tưởng như bất động, mình ngồi đợi những xa xôi quay về.

Chầm chậm tháng Ba
Ký ức rồng xanh

Ấn tượng về rồng sớm nhất trong tôi mà đến nay còn lưu giữ, là con rồng ở đình làng; ngôi đình được xây dựng lại. Sợ chiến tranh tàn phá, xã mang sắc bằng, kèo cột cất giấu trong làng. Tôn tạo lại đình tuy nhỏ hơn song vẫn mang dáng vóc ngày xưa. Tôi nhớ câu thơ truyền trong dân gian mà mấy cụ đọc lại về ngôi đình bị hư hại bởi đạn bom, trước lúc nó được tháo dỡ đem cất: “Đình làng nay không rồng bay phượng múa/ Đứng trụi trần như bốt gác đầu thôn…”.

Ký ức rồng xanh
Ký ức mặn nồng & rực đỏ

Té ra cái vùng Ngũ Điền từng rất khổ, rất xa, rất khó khăn nhiều bề quê tôi có khá đông người làm nghề viết, cả văn và báo. Trong đó có anh bạn trẻ, phóng viên Đài Phát thanh Truyền hình Thừa Thiên Huế, giờ “trở chứng”, toàn viết trên trang facebook của mình về kỷ niệm, tập hợp lại, in tới mấy cuốn sách hót hòn họt. Toàn thời đói khổ mà vui.

Ký ức mặn nồng  rực đỏ
Return to top