ClockChủ Nhật, 07/08/2016 06:05

Ký ức

TTH - Mấy mươi năm mới gặp lại, anh thay đổi khá nhiều:Tóc bạc, mặt nhiều nếp nhăn và khuôn mặt chữ điền không còn rắn rỏi, góc cạnh như xưa.

Tôi quen anh trong một lần nhờ xe từ Nhà máy in hoa Hà Đông về Văn Điển (Hà Nội). Ngày xưa, cứ mỗi lần đạp xe ra đường, hầu như anh đều chở người lạ xin đi nhờ xe. Khi ấy, dù phương tiện giao thông khó khăn, nhưng ra đường muốn đi đâu, xa mấy cũng có người cho đi nhờ. Chẳng quen biết gì cả. Cứ xin đi nhờ xe là họ dừng lại chở ngay, đưa đến tận nơi mình muốn đến (nếu cùng đường). Vì thế chúng tôi mới quen anh. Mà đâu chỉ có đi nhờ xe của các anh. Cứ mỗi lần đi đâu xa, chúng tôi cũng xin đi nhờ xe của bất cứ người nào gặp trên đường, họ đều chở đi giống như nhiệm vụ phải làm.

Chúng tôi nói với nhau rất nhiều chuyện sau một thời gian xa cách khá dài. Đó là những ký ức của những tháng ngày đẹp đẽ. Ngày ấy, cả dân tộc sống trong cảnh chiến tranh tàn phá. Cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc, nhưng tất cả đặt giá trị nhân văn trên hết. Con người sống để yêu thương nhau! Ngày ấy gia đình tôi sống ở cơ quan của ba, mẹ  ở Viện Điều tra qui hoạch lâm nghiệp Hà Nội. Tất cả hơn 500 cán bộ nhân viên đều ở các khu tập thể của cơ quan. Thời buổi chiến tranh, mọi người trong tư thế sẵn sàng chiến đấu. Luôn trong tâm trạng mất mát, tổn thất nên các khu tập thể được xây dựng tạm thời. Mái tranh, vách đất. Cửa ngõ sơ sài. Chỉ một chiếc chốt tre mỏng. Khóa cửa chỉ là hình thức. Vậy mà chưa bao giờ nhà ai bị mất thứ gì, dù có thể đi vắng vài ngày. Ngày nghỉ, người lớn đi chợ hoặc bận việc có thể gửi con ở nhà hàng xóm thoải mái.

Ngày ấy phương tiện giao thông của các gia đình chủ yếu là xe đạp, nhưng không phải nhà nào cũng có. Xe đạp cũng là tài sản rất quí của mỗi gia đình. Thế nhưng, mỗi lần ai đi đâu xa, mượn xe đạp của người khác là chuyện thường tình. Tôi nhớ năm 1971, cả viện của ba, mẹ tôi chỉ có mỗi nhà cô Đức có cái ti vi do chồng học ở Đức đem về. Nhà cô ấy chỉ rộng khoảng 5m2, không thể chứa được hàng trăm người. Cô Đức để ti vi ra ngoài  hành lang cho mọi người cùng xem. Có bao nhiêu ghế cô đều khuân ra. Xô chậu hứng nước để dùng cho ngày mai cũng bị trẻ con chúng tôi nghịch ngợm làm đổ lênh láng ướt hết cả nhà. Nhưng cô Đức chẳng bao giờ cằn nhằn. Cứ mỗi cuối tuần có chương trình trên ti vi là cô lại vui vẻ tiếp đón khách đến xem.

Thời chiến tranh nhiều khó khăn. Thứ gì cũng thiếu. Máy bơm nước nhiều lúc bị hỏng. Nửa đêm, ba, mẹ tôi phải dậy xếp hàng để hứng nước (bể nước tập thể dùng chung). Nhiều khi đặt cục gạch để lấy chỗ. Can giờ thì ra đặt xô, chậu vào. Dù không có chủ, cục gạch ấy cũng không bị ai lấy đi để thay thế chỗ của mình! Gạo, thực phẩm đều mua theo tem,phiếu. Đến tháng thì mọi người cùng đi mua theo ngày qui định. Họ xếp hàng một cách trật tự. Tôi chưa bao giờ thấy cảnh chen lấn xô đẩy tranh giành chỗ, cãi vã nhau để mua hàng được sớm. Đi tàu điện hoặc xe buýt, thanh niên nhường chỗ cho các cụ già, người lớn tuổi là chuyện dĩ nhiên, từ trong tiềm thức của họ.

Ngày ấy, nhà ông phó viện trưởng cơ quan ba mẹ tôi ở khu tập thể cùng chúng tôi. Cũng nghèo nàn về vật chất, nhưng giàu có về tâm hồn, tình cảm. Ông viện trưởng thì ở trên một chiếc nhà sàn nho nhỏ với một bộ bàn, ghế và chiếc tủ đựng đồ dùng hết sức giản dị. Ông ấy làm việc siêng năng, luôn tìm cách đẩy mạnh sự phát triển của cơ quan và bảo đảm cuộc sống, quyền lợi cho cán bộ nhân viên của mình. Cấp dưới, các trưởng, phó phòng, những người giúp việc cho ông đều rất giỏi về chuyên môn.

Hôm nay gặp lại anh, bao ký ức đẹp của 40 năm trước lại ùa về. “Đó là quãng đời thơ ấu được sống trong tình người ấm áp. Dù khổ, nhưng cả anh, em và bạn bè, những người 6X chúng ta đã rất may mắn được sinh ra thời đó. Thời đã xây dựng nên nhân cách của một thế hệ’’. Anh nói khi chúng tôi chia tay nhau!

Đinh Hoàng Xuân Hồng

ĐÁNH GIÁ
Hãy trở thành người đầu tiên đánh giá cho bài viết này!
  Ý kiến bình luận

BẠN CÓ THỂ QUAN TÂM

Chầm chậm tháng Ba

Tháng Ba, đôi khi mình muốn ngồi thật lâu dưới một tán cây. Những dải nắng trùng trình rọi qua vòm lá rậm, rắc mật lên bờm hoa mê mướt tím, đậu lại trên đôi cánh bầy sẻ đang mổ vào hư vô. Màu xanh ngợp đầy của lá tràn vào lồng ngực tháng Ba, như thôi thúc người ta hoài vọng về một quãng đồng mùa con gái, một cánh rừng rộng đến mộng mị, hay ấp ủ chiêm bao trong mảnh vườn tuổi nhỏ. Lứa gió đầu xuân hãy còn hây hẩy, nhu mì, nhón tay mở những cánh cửa tỉnh thức, thả bầy ý nghĩ đi rong. Giữa quãng vắng tưởng như bất động, mình ngồi đợi những xa xôi quay về.

Chầm chậm tháng Ba
Ký ức rồng xanh

Ấn tượng về rồng sớm nhất trong tôi mà đến nay còn lưu giữ, là con rồng ở đình làng; ngôi đình được xây dựng lại. Sợ chiến tranh tàn phá, xã mang sắc bằng, kèo cột cất giấu trong làng. Tôn tạo lại đình tuy nhỏ hơn song vẫn mang dáng vóc ngày xưa. Tôi nhớ câu thơ truyền trong dân gian mà mấy cụ đọc lại về ngôi đình bị hư hại bởi đạn bom, trước lúc nó được tháo dỡ đem cất: “Đình làng nay không rồng bay phượng múa/ Đứng trụi trần như bốt gác đầu thôn…”.

Ký ức rồng xanh
Ký ức mặn nồng & rực đỏ

Té ra cái vùng Ngũ Điền từng rất khổ, rất xa, rất khó khăn nhiều bề quê tôi có khá đông người làm nghề viết, cả văn và báo. Trong đó có anh bạn trẻ, phóng viên Đài Phát thanh Truyền hình Thừa Thiên Huế, giờ “trở chứng”, toàn viết trên trang facebook của mình về kỷ niệm, tập hợp lại, in tới mấy cuốn sách hót hòn họt. Toàn thời đói khổ mà vui.

Ký ức mặn nồng  rực đỏ
Văn Cao và ký ức thơ, nhạc, họa

Nhạc sĩ, hoạ sĩ, nhà thơ Văn Cao được biết đến là một trong những nghệ sĩ tài danh hàng đầu của Việt Nam trong thế kỷ 20. Ca khúc “Tiến quân ca” của ông được chọn là Quốc ca Việt Nam. Năm 2023 là tròn 100 năm ngày sinh của bậc tài danh ấy (15/11/1923 - 15/11/2023).

Văn Cao và ký ức thơ, nhạc, họa
Return to top